Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn: Các Nhận Xét Dẫn Nhập Giai Đoạn Chuyển Tiếp

SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN: CÁC NHẬN XÉT DẪN NHẬP GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP

Một trong các kết quả của tình hình trên thế giới ngày nay là gia tốc mọi sự sống nguyên tử ở trên và bên trong hành tinh. Tất nhiên điều này bao hàm hoạt động rung động ngày càng tăng của cơ thể con người, với hậu quả tất nhiên trên bản chất tâm thông là tạo ra nhạy bén khác thường và ý thức tâm linh. Nhân đây, cũng là việc hữu ích mà nhớ lại rằng tình trạng con người hiện nay không phải là kết quả của chỉ một yếu tố duy nhất, mà là của nhiều yếu tố – tất cả các yếu tố đó đều linh hoạt cùng một lúc, bởi vì giai đoạn này đánh dấu việc kết thúc một kỷ nguyên và khai mở kỷ nguyên mới.

Trước tiên, các yếu tố mà tôi đề cập đến, gồm có ba loại:

  1. Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa việc kết thúc Kỷ Nguyên Song Ngư (nhấn mạnh vào uy quyền và niềm tin) với việc ra đời của Kỷ Nguyên Bảo Bình (nhấn mạnh vào sự cảm thông cá nhân và hiểu biết trực tiếp). Hoạt động của các lực này, tiêu biểu cho hai cung hoàng đạo, tạo ra trong các nguyên tử của cơ thể con người một hoạt động tương ứng.

Chúng ta sắp có các kiến thức mới mẻ với các nguyên tử của xác thân được điều chỉnh để tiếp nhận. Các nguyên tử vốn có ưu thế của cung Song Ngư này, đang bắt đầu giảm bớt hoạt động và được “triệt thoái về mặt huyền linh” (“occultly withdrawn”), như thường gọi, hay trừu xuất, trong khi những người đáp ứng với các khuynh hướng của Kỷ Nguyên Mới, đến phiên họ, được kích động và hoạt động rung động của họ được tăng lên.

  • Cuộc thế chiến đã đánh dấu một cao điểm (climax) trong lịch sử nhân loại, và hậu quả chủ quan của nó lại mạnh mẽ hơn là theo người ta hiểu từ trước đến giờ. Qua sức mạnh của dư âm kéo dài diễn ra như một kinh nghiệm lớn lao ở các chiến trường trên khắp thế giới trong khoảng bốn năm (1914– 1918) và qua sự căng thẳng tình cảm dữ dội của toàn thể nhân loại trên hành tinh, mạng lưới bằng chất dĩ thái (được gọi là “tấm màn che thánh điện”) đang ngăn cách cõi trần với cõi cảm dục, bị xé rách hay tơi tả ra và tiến trình gây sửng sốt để kết hợp hai thế giới của cách sinh hoạt ở cõi trần và của kinh nghiệm cõi cảm dục đã bắt đầu và hiện đang từ từ tiến triển. Do đó, hiển nhiên là điều này phải mang lại các thay đổi rộng lớn và các biến đổi to tát trong ý thức con người. Trong khi điều đó sẽ báo trước kỷ nguyên của hiểu biết, của tình huynh đệ và của sự giác ngộ, nó cũng sẽ mang lại các tình trạng phản ứng và thả lỏng các sức mạnh tâm thông mà ngày nay đang đe doạ kẻ thiếu kiềm chế và thiếu hiểu biết, đồng thời biện minh cho việc gióng lên một âm thanh báo động và đề phòng.
  1. Nhân tố thứ ba như sau. Trong một thời gian dài, nhân tố này được các nhà thần bí thuộc mọi tôn giáo trên thế gian và các đạo sinh huyền bí học ở khắp nơi nhận biết, đó là một vài thành viên của Thánh Đoàn Hành Tinh đang tiến tới gần hơn cõi trần vào lúc này. Với câu này tôi muốn bạn suy đoán rằng tư tưởng hay sự chú tâm bằng thể trí (mental attention) của Đức Christ và của một vài đệ tử cao cấp của Ngài, tức các Chân Sư Minh Triết, vào lúc này được hướng đến hay được tập trung vào các sự việc của nhân loại, và một số trong các Ngài cũng đang chuẩn bị để phá vỡ sự im lặng lâu nay của các Ngài và có thể sau này xuất hiện trong nhân loại. Tất nhiên điều này có một hiệu quả mạnh mẽ, trước tiên là nơi các đệ tử của các Ngài và nơi những người đã được chỉnh hợp và làm cho đồng bộ với Thể Trí của các Ngài, và hai là, nên nhớ rằng năng lượng đang tuôn đổ qua các điểm hội tụ của Thiên Ý này sẽ có một hiệu quả song hành: có tính huỷ diệt cũng như kiến tạo, tuỳ theo tính chất của các thể đang phản ứng vào nó. Các mẫu người khác nhau đáp ứng một cách khác nhau với bất cứ luồng năng lượng nào đang chảy vào, và một sự kích thích tâm linh mạnh mẽ đang xảy ra vào lúc này, với các kết quả, có lợi về mặt thiêng liêng lẫn bất lợi về mặt huỷ diệt.
  • Cũng có thể nói thêm rằng một vài mối liên hệ về mặt thiên tượng giữa các chòm sao đang phóng rải các loại mãnh lực mới, hiện tác động qua thái dương hệ chúng ta và lên trên hành tinh chúng ta nhờ thế có thể tạo ra các khai mở mà từ trước đến giờ không thể biểu hiện ra được và đang mang lại bằng chứng về các sức mạnh tiềm tàng và biểu hiện của các kiến thức mới mẻ. Tất cả mọi điều này phải được những người hoạt động trong lãnh vực nhân sự (human affairs) ghi nhớ cẩn thận, nếu cuộc khủng hoảng hiện nay được đánh giá đúng và các cơ may tuyệt vời của nó được vận dụng đúng lúc. Theo tôi, thật là điều hay khi đưa ra một số sự việc liên quan đến tình hình trên thế giới hiện nay, nhất là liên quan đến các nhóm huyền bí, huyền linh và thần bí (esoteric, occult and mystical groups) và phong trào tâm linh.

Hiện nay, mọi tư tưởng gia và các nhà hoạt động trong lãnh vực tâm linh chân chính đều quan tâm đến sự gia tăng tội ác về mọi mặt, bởi việc phô bày (display) các khả năng tâm thông hạ đẳng, bởi việc hư hỏng rõ rệt của thể xác, như đã thấy trong việc lan tràn bệnh hoạn, và bởi sự tăng lên dữ dội về bệnh tâm thần (insanity), các bệnh loạn thần kinh (neurotic conditions) và quẩn trí (mental unbalance). Tất cả đều do kết quả của việc thủng mạng lưới bảo vệ hành tinh (the tearing of the planetary web), đồng thời đó là một phần của cơ tiến hoá (evolutionary plan) và đưa tới cơ hội để nhờ đó nhân loại có thể đi đến giai đoạn tiến hoá kế tiếp. Thánh Đoàn các Chân Sư (Hierarchy of Adepts) đã có các ý kiến phân hoá (nếu một từ ngữ không thích hợp như thế có thể được dùng cho một nhóm các linh hồn và các huynh đệ không hề biết đến ý thức chia rẽ, mà chỉ khác nhau về vấn đề “khéo léo trong hành động” (“skill in action”), về tình hình thế giới hiện nay. Một vài vị cho rằng việc đó còn sớm và tất nhiên là không thích hợp và đưa tới một tình thế khó khăn, trong khi các vị khác đưa ra quan điểm của các Ngài dựa vào bản chất tốt lành (soundness) của nhân loại và xem cuộc khủng hoảng hiện nay như là tất nhiên và xảy ra bởi sự phát triển trong chính con người; các Ngài nhìn thấy tình trạng như là có tính giáo dục và chỉ tạo ra khó khăn tạm thời mà – khi điều đó được giải quyết – sẽ đưa nhân loại tiến trên con đường có một tương lai còn huy hoàng hơn nhiều. Nhưng đồng thời cũng công nhận sự thật rằng các mãnh lực lớn lao và thường gây tàn phá đã không còn được kiềm chế trên cõi trần nữa và hậu quả là gây nên sự chết chóc có liên quan đến tất cả các Chân Sư, đệ tử của các Ngài và những người hành đạo (workers).

  • Nói chung, nỗi khó khăn có thể được truy nguyên ra là do quá bị kích thích và sự căng thẳng quá mức nơi các bộ phận của xác thân, mà giới linh hồn (đang nhập thế) phải sử dụng khi linh hồn tìm cách biểu lộ trên cõi trần và nhờ đó đáp ứng với môi trường chung quanh. Dòng năng lượng tuôn đổ từ cõi cảm dục và (với một mức độ ít hơn) từ cõi hạ trí, lập được mối liên lạc với các thể mà đầu tiên không đáp ứng, và sau đó lại đáp ứng quá mức; nó tuôn đổ vào các tế bào não bộ, mà do thiếu sử dụng, nên không quen với nhịp điệu mạnh mẽ được áp đặt lên chúng; còn dụng cụ hiểu biết của con người thì kém cỏi đến đỗi đa số con người không có đủ nhận thức để tiến hành một cách thận trọng và tiến tới một cách từ từ. Do đó, chẳng bao lâu nữa họ sẽ gặp nguy hiểm và khó khăn; bản chất của họ thường kém tinh khiết hay là đầy ích kỷ đến nỗi các khả năng mới – vốn đang bắt đầu hiện ra, và như thế mở ra các con đường hiểu biết và giao tiếp mới – lại lệ thuộc vào các mục đích hoàn toàn ích kỷ và bán rẻ cho các mục đích trần tục. Những linh thị thoáng hiện được ban cho con người về những gì ẩn sau bức màn che giấu bị giải thích sai, còn thông tin thu lượm được bị lạm dụng và bị làm lệch lạc bởi các động lực sai lầm. Nhưng dù cho một người vô tình là nạn nhân của mãnh lực hay là tự mình tiếp xúc với mãnh lực đó một cách cố ý, y cũng phải trả giá cho sự thiếu hiểu biết hay sự liều lĩnh của mình trong xác thân, cho dù linh hồn của y có thể “tiến tới được”.

Hiện nay, không có ích gì mà nhắm mắt trước vấn đề kề cận hay cố đổ lỗi cho các thất bại đáng buồn, các suy sụp huyền linh, cho các nhà tâm thông nửa tỉnh nửa mê, những nhà thần bí bị ảo giác và những kẻ thiểu trí không chuyên về huyền bí học, do thiếu sáng suốt, hay là đổ thừa cho một số đạo sư, các nhóm hay các tổ chức. Nhiều sự phiền trách có thể thực sự được nhận ra khắp mọi nơi, nhưng cần nên sáng suốt đối phó với các sự kiện và hiểu được nguyên nhân của những gì đang tiết lộ ở mọi nơi vốn có thể được nói như sau:

Nguyên nhân sự phát triển của tâm thông bậc thấp và của sự nhạy cảm ngày càng tăng của nhân loại vào lúc này là dòng chảy vào không đoán trước được của một hình thức năng lượng cảm dục mới mẻ xuyên qua bức màn bị xé rách, mà cách đây một thời gian ngắn đã bảo vệ an toàn cho nhiều người. Thêm vào đó, một số lớn các hiện thể của con người thiếu đáp ứng với sự căng thẳng mới được đặt ra và một số ý tưởng của vấn đề có thể được hiểu rõ.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Tuy nhiên đừng quên rằng có một khía cạnh khác cần minh hoạ. Dòng năng lượng lưu nhập này đã đưa hàng trăm người vào một nhận thức tâm linh mới mẻ và sâu xa hơn; nó đã mở ra một cánh cửa mà nhiều người không bao lâu nữa sẽ đi qua và được điểm đạo lần hai và nó để cho một dòng ánh sáng tuôn vào thế gian – một ánh sáng sẽ tiếp tục ngày càng tăng trong vòng ba mươi năm tới (1), mang lại đảm bảo cho tính bất tử và một thiên khải mới về các tiềm lực thiêng liêng trong con người. Kỷ Nguyên Mới đang ló dạng như thế đó. Cơ hội đưa đến các mức độ hứng cảm mà từ trước đến giờ chưa được tiếp cận, đã trở nên dễ dàng. Việc kích thích các quan năng cao siêu (và ở một mức độ rộng lớn) hiện giờ có thể xảy ra, việc phối kết của phàm ngã với linh hồn và việc sử dụng đúng năng lượng có thể diễn tiến với sự hiểu biết và hoạch định mới mẻ hơn. Bao giờ nhân loại cũng phải kiên trì và luôn luôn có nhiều người được kêu gọi, còn ít người được tuyển chọn. Đây là định luật huyền linh.

Hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn có tiềm lực tâm linh mạnh mẽ và có cơ may cho tất cả những ai ở trên con đường dự bị và con đường đệ tử. Đó là thời điểm mà tiếng gọi hào hùng được đưa ra cho con người với sự cổ vũ nhiệt liệt và với thiện chí, vì sự giải thoát sắp xảy ra. Nhưng đó cũng là thời điểm nguy hiểm và đầy thảm hoạ cho kẻ bất cẩn và kẻ chưa sẵn sàng, cho kẻ nhiều tham vọng, kẻ vô minh và cho những ai đi tìm Thánh Đạo với lòng ích kỷ và không muốn bước lên con đường phụng sự với động lực trong sạch. E rằng sự đảo lộn rộng lớn này và tai hoạ phải đến với rất nhiều người dường như bất công đối với bạn, tôi xin nhắc các bạn rằng cuộc sống duy nhất này chỉ là một thời gian ngắn ngủi trong cuộc sống rộng lớn và to tát hơn của linh hồn và rằng những ai thất bại và bị gián đoạn bởi ảnh hưởng của các mãnh lực mạnh mẽ hiện giờ đang tràn ngập địa cầu, tuy vậy, mức độ rung động của họ sẽ được “cải tiến” (“stepped up”) ngõ hầu sửa đổi được nhiều điều theo kịp với số đông người thành đạt, cho dù trong tiến trình đó, thể xác của họ có thể bị huỷ diệt đi chăng nữa. Việc huỷ diệt thể xác không phải là tai hoạ tệ hại nhất mà con người có thể phải chịu.

Mục đích của tôi không phải là đề cập đến toàn thể lãnh vực có thể có liên quan đến tình trạng trong lãnh vực tâm thông do dòng lưu nhập (inflow) của năng lượng cảm dục tạo ra vào lúc này. Tôi tìm cách tự giới hạn vào hiệu quả của dòng lưu nhập này trên những người tìm đạo và những người nhạy cảm. Hai từ ngữ này – người tìm đạo và người nhạy cảm – được tôi dùng trong mục này để phân biệt hạng người tìm kiếm đã giác ngộ bất chấp sự kiềm hãm và khống chế của hạng người tâm thông bậc thấp, những người mà từ lâu đã kiềm hãm và khống chế. Ở đây cần nhắc nhở bạn rằng năng lực tâm thông, như thường gọi, có thể được chia thành hai nhóm như sau :

Tâm thông cao Tâm thông thấp

(Higher Psychism) (Lower Psychism)

  • Thiêng liêng (Divine) – Động vật (Animal)
  • Kiểm soát được (Controlled)
  • Không kiểm soát được (Uncontrolled)
  • Tích cực (Positive) – Tiêu cực (Negative)
  • Được sáng suốt áp dụng (Intelligently applied)
  • Mang tính tự động (Automatic)
  • Tính trung gian – Tính đồng cốt

(Mediatorship) (Mediumship)

Ít người hiểu được các dị biệt này, cũng như không lượng định được rằng cả hai nhóm tính chất đều cho thấy thiên tính của chúng ta. Tất cả đều là các biểu hiện của Thượng Đế.

Có một số năng lực tâm thông mà con người chia sẻ chung với con vật; các năng lực này có sẵn trong cơ thể động vật và có tính chất bản năng, nhưng đối với một số lớn loài vật, chúng lại rơi xuống dưới ngưỡng ý thức và không được hiểu rõ, do đó trở thành vô dụng. Thí dụ, đó là các năng lực như nhãn thông và nhĩ thông thuộc cõi cảm dục (astral clairvoyance and clairaudience) và nhìn thấy được các màu sắc và các hiện tượng tương tự. Nhãn thông và nhĩ thông cũng có thể có trên cõi trí và bấy giờ chúng ta có thể gọi đó là viễn cảm (telepathy) và thấy được các biểu tượng, vì mọi tưởng tượng về các hình của hình học đều là nhãn thông cõi trí. Tuy nhiên, tất cả các khả năng này đều được ràng buộc với cơ thể con người hay là bộ máy đáp ứng, và dùng để cho con người tiếp xúc với các trạng thái của cõi hiện tượng, nhờ có bộ phận máy đáp ứng (response mechanism) này (mà chúng ta gọi là phàm ngã) con người mới tồn tại được. Chúng là sản phẩm của sự hoạt động của hồn thiêng (divine soul)(1) trong con người, đang khoác hình thức của cái mà chúng ta gọi là “sinh hồn”(2) (“animal soul”), vốn thực sự đáp ứng với ngôi Thánh Thần (Holy Ghost aspect) trong Tam Thượng Thể của tiểu vũ trụ con người. Tất cả các quyền năng này đều có các tương ứng tâm linh cao của chúng, các tương ứng này chỉ hiện ra khi linh hồn trở nên linh hoạt một cách có ý thức và kiểm soát được bộ máy của mình qua thể trí và bộ não. Khi nhãn thông và nhĩ thông cõi cảm dục không còn ở dưới ngưỡng của ý thức, mà được sử dụng và vận hành một cách linh hoạt, điều đó có nghĩa là bí huyệt nhật tùng (3) được khai mở và linh hoạt. Khi có năng lực trí tuệ tương ứng trong ý thức, thì bấy giờ điều đó hàm ý rằng bí huyệt cổ họng và bí huyệt giữa hai mày đều đang trở nên “thức tỉnh” và linh hoạt. Nhưng các năng lực tâm thông cao hơn, như là tri giác tinh thần (Spiritual perception) cùng với sự hiểu biết không thể sai lầm của nó, tức trực giác với phán đoán không còn và (2) Hồn thiêng là trạng thái cao nhất của con người, hồn này chỉ ở tại cõi riêng của nó, tức là cõi phụ thứ ba (hoặc ở cõi phụ thứ hai đối với đệ tử điểm đạo) của cõi trí, còn sinh hồn là trạng thái thấp nhất, đó là hạ trí (kama-manas - Lan) của con người (ND).

3 Solar plexus centre (bí huyệt đan điền - Lan) nằm dưới xương bả vai trong cột sống (Trích chữa Trị Nội Môn, trang 169) lầm lạc của nó, và khoa trắc tâm (psychometry) thuộc loại cao siêu với năng lực khám phá quá khứ và tương lai của nó, đều là các đặc quyền của hồn thiêng. Các năng lực cao siêu này sẽ xuất hiện khi bí huyệt đầu, bí huyệt tim, cũng như bí huyệt cổ họng bắt đầu hoạt động do kết quả của việc tham thiền và phụng sự. Tuy nhiên, đạo sinh nên ghi nhớ hai điều:

Ấy là cái lớn luôn luôn bao gồm cái nhỏ, nhưng tâm thông thuần tuý động vật không bao hàm tâm thông cao.

Giữa trạng thái trung gian thụ động (negative medium– ship) loại thấp nhất với loại cao nhất của vị huấn sư và kẻ có nhãn thông (seen) được linh hứng có một cách biệt rất nhiều về mức độ và điều đó là do các bí huyệt phát triển không đồng đều trong nhân loại.

Sự phức tạp của vấn đề rất lớn, nhưng tình hình chung có thể hiểu được, ý nghĩa của cơ may được đưa ra có thể hiểu được, và việc sử dụng đúng kiến thức được dùng để đưa kẻ thánh thiện ra khỏi giai đoạn khẩn trương hiện nay, và như vậy sự tăng trưởng về tâm thông và tâm linh của con người được bảo dưỡng và duy trì.

Tôi tin vào lúc này có hai câu hỏi sẽ thu hút sự chú tâm của tất cả những kẻ phụng sự trong lãnh vực huyền bí học và những kẻ đang tham dự vào việc dạy dỗ các đạo sinh và những người tìm đạo.

  1. Chúng ta sẽ luyện tập những kẻ nhạy cảm và những người có tâm thông như thế nào để cho họ có thể tránh được những nguy hiểm và nhân loại có thể an toàn tiến tới cái di sản mới mẻ và huy hoàng của họ?
  • Làm thế nào các trường phái nội môn hay là “các giới luật“ (disciplines) như đôi khi được gọi thế, vận dụng đúng cơ hội ?

Trước tiên, chúng ta hãy nói đến việc luyện tập và bảo vệ an toàn cho các nhà tâm thông và những người nhạy cảm.

  1. Việc huấn luyện các nhà tâm thông (The training of Psychics)

Điều trước tiên cần ghi nhớ là thuật đồng cốt và tâm thông thiếu sáng suốt và tiêu cực đều đưa kẻ thực hành hai thuật này đến trình độ của một người máy; đó là một điều nguy hiểm và không nên làm bởi vì nó tước đi mất tự do ý chí (free will) và tính linh hoạt (positivity) của con người và làm cho người này không còn hành xử như là một người hoàn toàn sáng suốt nữa. Trong các trường hợp này, con người không đóng vai trò như là vận hà cho linh hồn riêng của mình, mà chỉ thông minh hơn con vật có bản năng đôi chút thôi, nếu không muốn nói rằng, theo nghĩa đen, y chỉ là một cái vỏ trống rỗng mà một thực thể thích ám nhập có thể chiếm cứ và sử dụng. Khi nói như thế là tôi bàn đến loại đồng cốt thấp kém nhất mà hiện nay đang có quá nhiều, nó vốn là nguyên nhân có liên quan đến các trí óc nổi bật trong các phong trào cổ vũ cho đồng bóng. Một trạng thái đồng cốt (được nhập vào với một tư thế tập trung hoàn toàn có ý thức) mà trong đó, nhờ hiểu biết và sáng suốt, kẻ đóng vai đồng tử bỏ trống xác thân (body) mình cho một thực thể (mà y hoàn toàn biết rõ) nhập vào và thực thể này chiếm xác thể đó (với sự cho phép có ý thức của đồng tử) để sử dụng cho một mục đích tinh thần nào đó và giúp cho huynh đệ của y có thể trở thành tốt lành. Nhưng thường thường làm thế nào mà loại trạng thái đồng cốt này được nhận ra ? Một vài đồng tử biết được kỹ thuật chế ngự việc nhập vào hay xuất ra của một thực thể mượn xác, họ cũng không biết làm cách nào để tiến hành việc này theo cách thức sao cho trong một thời gian ngắn họ không bao giờ biết đến những gì mà chính họ đang làm và mục đích hành động của họ. Một cách rõ ràng và có chủ đích, họ tạm thời cho một linh hồn khác mượn xác thân của họ với mục đích phụng sự nhưng vẫn giữ sự toàn vẹn của riêng họ trong suốt thời gian đó. Biểu hiện cao nhất của loại hoạt động này là việc vị môn đồ Jesus dâng xác thể của Ngài cho Đức Christ sử dụng. Chính trong từ ngữ phụng sự (service) có ẩn toàn bộ câu chuyện và sự bảo vệ an toàn. Khi trạng thái mượn xác chân chính này (true mediumship) được hiểu rõ ràng hơn, chúng ta sẽ thấy người đồng tử thoát ra khỏi xác thân mình với ý thức tỉnh táo đầy đủ xuyên qua khe nhỏ ở đỉnh đầu của y, chớ không phải như đa số các trường hợp ngày nay là đi xuyên qua bí huyệt nhật tùng, mà không có việc duy trì sự hiểu biết, duy trì sự trao đổi, cũng như không có bất cứ sự nhớ lại nào về những gì đã xảy

Bấy giờ, tạm thời chúng ta sẽ có một người chủ mới (new tenant) nhập vào theo đường lối rung động đồng bộ nhờ lối vào ở đầu, và sau đó dùng thể xác mượn được này làm vận cụ để dùng vào việc này hay việc khác. Nhưng đừng bao giờ dùng cách này làm thoả mãn tính tò mò do nhàn rỗi hay là một nỗi buồn phiền cũng do nhàn tản, do nỗi cô đơn và than thân trách phận của riêng mình. Hiện nay nhiều người thuộc hạng đồng tử bậc thấp bị những người hiếu kỳ hay kẻ thiếu hạnh phúc khai thác và những con người đặc biệt này có ý thức hoàn toàn tập trung dưới cách mô và bí huyệt nhật tùng của họ thực ra là não bộ của họ (vì đó là bộ óc của con vật) được thúc đẩy để hành động như là đồng tử để thoả mãn lòng ưa thích cảm giác hay ham muốn tiện nghi của các huynh đệ hầu hết cũng thiếu sáng suốt như họ.

Đồng thời, có các đồng tử ở thứ bậc cao hơn rất nhiều, kiếp sống của họ được cống hiến vào việc phụng sự cho những linh hồn tiến hoá trong cõi vô hình và những kẻ tự mình cống hiến để cho các huynh đệ của họ có thể học hỏi về họ; như vậy, theo cả hai khía cạnh của bức màn phân cách, các linh hồn đều được trợ giúp và có cơ hội hiểu biết hay phụng sự. Nhưng các linh hồn này cũng có lợi nhờ sự luyện tập sáng suốt hơn và nhờ sự hiểu biết chính xác hơn về kỹ thuật dành cho công việc của họ và cấu tạo của xác thân họ. Bấy giờ họ sẽ trở thành các vận hà hữu hiệu hơn và là kẻ trung gian đáng tin cậy hơn.

Trên hết, hãy để cho các nhà tâm thông trên thế giới ngày nay hiểu được sự cần thiết là phải kiềm chế chớ không phải bị kiềm chế; hãy để cho họ nhận thức được rằng tất cả những gì mà họ làm cũng đều có thể được làm bởi bất cứ đệ tử lão luyện nào của Minh Triết Vô Thuỷ, nếu có cơ hội và các trường hợp này biện minh cho việc tiêu phí thần lực như thế. Các nhà tâm thông bị lừa phỉnh dễ dàng. Thí dụ điều hiển nhiên là trên cõi cảm dục có một hình tư tưởng của chính tôi, huynh đệ Tây Tạng của bạn. Tất cả những ai đã nhận được các giáo huấn hằng tháng thuộc cấp đệ tử, những ai đã đọc được các sách mà tôi đã đưa ra trên thế giới với sự trợ giúp của A.B., cũng như tất cả những ai đang làm việc trong nhóm các đệ tử riêng của tôi, đều đương nhiên và tự động góp phần vào việc tạo ra hình tư tưởng cõi cảm dục này. Đó không phải là tôi, cũng không phải hình tư tưởng đó có liên kết với tôi, cũng không phải tôi sử dụng nó. Rõ ràng là tôi đã tách chính tôi ra khỏi hình tư tưởng đó và không dùng nó như là phương tiện để tiếp xúc với những kẻ mà tôi dạy dỗ, vì tôi chỉ chọn cách làm việc hoàn toàn trên các phân cảnh trí tuệ (mental levels), với cách ấy, chắc chắn là phạm vi tiếp xúc của tôi bị hạn chế, nhưng lại làm tăng thêm hiệu quả công việc của tôi. Không cần phải nói, hình tư tưởng ở cõi cảm dục này là một lệch lạc về tôi và công việc của tôi, đồng thời nó lại giống như một lớp vỏ (shell, ma hình) được phấn khích và làm cho linh hoạt.

Bởi vì trong hình tư tưởng này có nhiều chất tình cảm và cũng có một số chất trí (mental substance), nó có thể tạo ra một sức thu hút lớn lao và tính hữu hiệu của nó cũng giống như mọi ma hình khác (shells), thí dụ các ma hình được tiếp xúc trong buổi cầu đồng, nó giả dạng là chính tôi ở nơi nào trực giác chưa khơi hoạt được, lúc ảo tưởng hoàn toàn ngự trị. Do đó kẻ sùng tín có thể hoà nhập rất dễ dàng vào hình thức ảo tưởng này (illusory form) và hoàn toàn bị phỉnh gạt. Mức rung động của nó tương đối cao. Hiệu quả ở cõi trí của nó thì giống như một hình nhại khéo léo của chính tôi và dùng để đặt kẻ sùng tín bị lừa phỉnh tiếp xúc với cuộn phim cảm dục quang, vốn là hình ảnh ghi lại của tiên thiên ký ảnh (akashic records). Ký ảnh này là cuộn phim vĩnh cửu mà cơ tiến hoá của thế giới chúng ta được ghi vào đó mà nhiều vị trong chúng tôi (tức Chân Sư T.T.–ND) lúc giảng dạy, đã gom góp các dữ kiện và nhiều tài liệu của chúng tôi từ trong đó. Cảm dục quang làm lệch lạc và làm hạ giảm ký ảnh này. Bởi vì đây là một hình ảnh lệch lạc và đang tác động trong ba cõi sắc tướng và không có cội nguồn có giá trị nào cao hơn là cội nguồn ở cõi sắc tướng, nên nó chứa các mầm mống chia rẽ và tai hoạ trong đó. Các hình thức phỉnh lừa phát xuất từ đó, các ý kiến chia rẽ, tư tưởng nuôi dưỡng tham vọng và đưa tới việc ưa thích quyền hành, cùng là các mầm mống ham muốn và khao khát của cá nhân (đang phân chia các nhóm) xuất hiện được là do tiếp xúc với nó. Bởi đó, hậu quả cho những ai bị lừa phỉnh rất là buồn thảm.

Tôi cũng xin nêu ra rằng trạng thái xuất thần của đồng tử như thường gọi, tất nhiên phải được thay thế bằng trạng thái trung gian vốn xuất hiện nơi người nam hay nũ có nhãn thông hay nhĩ thông trên cõi cảm dục, và do đó, họ là người có ý thức khơi hoạt đầy đủ và với bộ óc vật chất nhanh nhẹn và linh hoạt có thể có được, giống như là kẻ trung gian giữa những người còn ở trong các thể thuộc cõi trần (và do đó không thấy và không nghe được trên các phân cảnh tinh anh hơn) với những người, nhờ đã tách khỏi các thể của họ, nên cắt đứt được mối liên giao với cõi trần. Loại tâm thông này có thể giao tiếp với cả hai nhóm và giá trị của họ cùng với sự hữu ích của họ với tư cách là đồng tử đều vượt ngoài sự tính toán khi họ chuyên tâm vào mục đích, không vị kỷ, trong sạch và hiến dâng cho việc phụng sự. Nhưng trong việc luyện tập mà họ tự trải qua, họ phải tránh các phương pháp tiêu cực hiện nay và thay vì “ngồi chờ phát triển” trong một chỗ trống và im lặng đợi, họ nên nỗ lực làm việc một cách tích cực với tư cách là linh hồn, vẫn duy trì sự sở hữu có ý thức và sáng suốt của bộ máy thấp so với các thể của họ; họ phải biết rõ trung tâm nào trong loại thân xác mà họ sử dụng trong khi hoạt động bằng tâm thông, và, với tư cách là linh hồn, họ phải học cách dò tìm trong cõi ảo tưởng mà họ đang hoạt động trong đó; từ vị trí cao siêu và trong sạch của họ, mong họ nhìn thấy rõ ràng, nghe hiểu đúng và tường thuật chinh xác, và như thế phụng sự cho kỷ nguyên và thế hệ của họ và biến cõi cảm dục thành một trường hoạt động quen thuộc và biết rõ, làm cho nhân loại quen với trạng thái hiện tồn, trong đó các huynh đệ của họ, đang học hỏi kinh nghiệm, đang sống và đang noi theo Thánh Đạo.

Ở đây tôi không thể viết ra những gì có liên quan đến kỹ thuật luyện tập đó. Vấn đề quá rộng lớn đối với một tác phẩm vắn tắt như thế này. Tôi xin nhấn mạnh rằng cần phải luyện tập một cách khôn ngoan và cẩn thận hơn và sử dụng một cách sáng suốt hơn sự hiểu biết hiện có, nếu gắng công tìm kiếm. Tôi kêu gọi tất cả những ai lưu tâm đến sự phát triển về hiểu biết tâm thông hãy nghiên cứu, suy tư, thực nghiệm, giảng dạy và học hỏi cho đến lúc mà toàn thể mức độ của hiện tượng tâm thông được đưa ra khỏi tình trạng vô minh, dựa trên suy đoán và tiêu cực hiện nay, lên tới mức có sự đảm bảo mạnh mẽ, kỹ thuật được chứng minh và biểu hiện tâm linh. Tôi kêu gọi các phong trào như là Hội Sưu Khảo Tâm Linh (Psychical Research Societies) trên thế giới và Phong Trào Tâm Linh (Spiritualistic Movement) rộng lớn hãy nhấn mạnh vào biểu hiện thiêng liêng chớ không nên nhấn mạnh nhiều về hiện tượng; mong sao họ tiến gần tới vấn đề theo quan điểm phụng sự và đưa các nghiên cứu của họ vào lãnh vực năng lượng và ngưng chạy theo thị hiếu tầm thường quá nhiều của quần chúng. Cơ may xảy đến cho họ rất lớn và công việc của họ rất là thiết yếu. Việc phụng sự được mang lại rất thực tiễn và thiết yếu, nhưng nếu muốn lợi dụng các phong trào này để hưởng được dòng lưu nhập sắp tới của năng lượng tinh thần thì họ phải chuyển sự chú tâm của họ vào lãnh vực các giá trị đích thực. Việc luyện tập trí tuệ và việc trình bày cho thế giới về một nhóm các nhà tâm thông sáng suốt phải là mục đích chính, bấy giờ, đối với họ, cõi cảm dục sẽ chỉ là một giai đoạn trên con đường tiến đến cõi giới mà tất cả các Đấng Hướng Dẫn Tinh Thần và các Chân Sư đều hiện hữu, và từ đó mọi linh hồn nhập thế và mọi linh hồn trở lại từ chỗ kinh nghiệm và thực nghiệm.

Có thể nêu câu hỏi là việc luyện tập này sẽ nhắm vào các nền tảng nào. Tôi xin nêu ra rằng giáo huấn này nên được đưa ra theo bản chất của con người và các mục tiêu cùng cứu cánh của linh hồn; việc luyện tập có thể được đưa ra cho hợp với phương pháp diễn đạt và cách dạy dỗ thận trọng cũng nên được đưa ra đối với cách sử dụng các bí huyệt trong thể dĩ thái và trong việc phát triển năng lực để giữ vững thái độ của kẻ bàng quan tích cực, kẻ luôn luôn là yếu tố kiềm chế, chi phối. Cần phải thận trọng phân tích chủng loại và đặc điểm của nhà tâm thông và bấy giờ áp dụng những phương pháp thích hợp khác nhau để cho người này có thể tiến tới với ít trở ngại nhất. Các trường phái và các lớp huấn luyện đang tìm cách khai hoá đạo sinh, phải được phân cấp tuỳ theo trình độ tiến hoá và mức độ đạo sinh hoà nhập vào nhóm với niềm hy vọng đầy lạc quan rằng những gì sắp xảy đến cho đạo sinh trong lúc ở trong nhóm đó sẽ phải ngưng lại.

Mục đích đối với nhà tâm thông thụ động hạng thấp sẽ là cách luyện tập thể trí và phong kín (closing) bí huyệt nhật tùng cho đến khi người này có thể hành động như người trung gian thực sự, nếu điều này bao hàm việc ngưng lại tạm thời các khả năng đồng bóng của y (và tất nhiên là việc khai thác với mục đích thương mại của y) bấy giờ sẽ có rất nhiều điều tốt lành cho y, xem y như là linh hồn bất tử, có vận mệnh thiêng liêng và hữu ích về mặt tinh thần.

Cách giáo huấn dành cho một đồng tử và nhà tâm thông sáng suốt sẽ đưa y đến việc hiểu biết đầy đủ về chính mình và về các năng lực của mình; điều đó sẽ khai mở được nhiều năng lực mà không có sự rủi ro nào, và với sự thận trọng, y sẽ được ổn định ở vị thế có yếu tố kiềm chế tích cực. Các khả năng nhãn thông và nhĩ thông của y sẽ dần dần trở nên hoàn thiện, và việc lý giải đúng những gì y thấy và tiếp xúc trên cõi huyễn tưởng, tức cõi cảm dục sẽ được vun bồi.

Như vậy chúng ta sẽ dần dần thấy xuất hiện trên thế giới một số lớn các nhà tâm thông lão luyện có khả năng hiểu biết và hành động trên cõi cảm dục với sự sáng suốt cũng nhiều y như họ hoạt động trên cõi trần, và những kẻ đang tự chuẩn bị để biểu lộ các khả năng tâm thông cao siêu hơn – nhận thức và viễn cảm tinh thần. Sau rốt, những người này sẽ tạo thành một nhóm các linh hồn liên kết, làm trung gian giữa những kẻ không thể thấy và nghe được trên cõi cảm dục bởi vì họ là các tù nhân của thể xác với những kẻ cũng là tù nhân của cõi cảm dục vì thiếu bộ máy đáp ứng với cõi trần.

Do đó, nhu cầu lớn lao không phải là chúng ta sẽ ngưng việc hỏi ý kiến và luyện tập các nhà tâm thông và các đồng tử, mà chúng ta sẽ huấn luyện họ một cách đúng đắn và bảo vệ họ một cách sáng suốt và, như thế, nhờ họ mà hai cõi trần và cảm dục được nối liền (1).

II. Trường Bí Giáo và các Giới luật

Câu hỏi thứ hai của chúng ta liên quan đến công việc của các trường bí giáo (esoteric schools) hay “các giới luật” (“disciplines”), như đôi khi người ta gọi, và việc luyện tập cùng việc bảo vệ an toàn cho người tìm đạo đang hoạt động trong các trường ấy.

1 Luận về Bảy Cung, QII (Tâm Lý Học Nội Môn) trang 555-598.

Trước tiên tôi xin làm sáng tỏ một điểm. Trở ngại lớn lao đối với công việc của đa số các trường bí giáo vào lúc này chính là ý thức chia rẽ của họ và sự cố chấp của các trường phái và các phương pháp khác. Các nhà lãnh đạo của các trường phái này cần chú tâm vào sự kiện sau đây. Mọi trường phái đều nhận được ảnh hưởng của Tổng Đàn Xuyên Hy Mã Lạp Sơn (trans–Himalayan Lodge) và một cách có chủ tâm hay vô tình, những người hành đạo đều được liên kết với các Chân Sư Minh Triết như là Chân Sư Morya hay Chân Sư K.H., tạo thành một trường phái duy nhất và gắn bó vào “giới luật” duy nhất (one “discipline”). Do đó, không có sự xung khắc thiết yếu nào về quyền lợi và ở khía cạnh nội môn – nếu họ đang hoạt động một cách hiệu quả bằng bất cứ cáchnào – các trường phái và các cách trình bày khác nhau được xem như là hợp nhất. Không có sự khác nhau cơ bản về giáo huấn, cho dù thuật ngữ được dùng có thể thay đổi còn phương pháp làm việc về cơ bản thì giống nhau. Nếu công việc của các Đấng Cao Cả là tiến tới như sự mong đợi vào những ngày căng thẳng này và với nhu cầu thế giới, thì điều cấp bách là các nhóm khác nhau này nên bắt đầu nhận ra sự đồng nhất đích thực của họ về mục tiêu, cách hướng dẫn và phương pháp, và rằng các nhà lãnh đạo của họ nên hiểu rằng chính là do e ngại các nhà lãnh đạo khác và ước muốn rằng nhóm của họ sẽ chiếm số lượng quan trọng nhất trong việc sử dụng thường xuyên các từ ngữ “Đây là một giới luật khác hẳn” hoặc “Công việc của họ không giống như công việc của chúng tôi”. Chính thái độ này đang thực sự ngăn cản sự phát triển đời sống tâm linh và trình độ hiểu biết trong nhiều đạo sinh tập hợp thành nhiều tổ chức ngoại môn. Vào lúc này, “đại tà thuyết chia rẽ” đang lây nhiễm vào họ. Các nhà lãnh đạo và các thành viên diễn đạt bằng các thuật ngữ “của chúng tôi” và “của quý ông” (“our” and ”your”) về “giới luật” này và “giới luật” kia, và phương pháp này thì đúng (thường thường là phương pháp của riêng họ), còn phương pháp kia có thể là đúng, nhưng có phần đáng ngờ, nếu không phải là hoàn toàn sai. Mỗi người xem nhóm riêng của mình như là đặc biệt ràng buộc vào họ và vào cách giảng dạy của họ, và đe doạ các thành viên của họ là sẽ gặp các kết quả tệ hại nếu họ hợp tác với các thành viên của các nhóm khác. Thay vào đó, họ nên nhận thức rằng tất cả các đạo sinh trong các trường phái tương tự và đang làm việc dưới cùng các thúc đẩy tâm linh, đều là các thành viên của trường phái duy nhất và đều cùng liên kết trong sự hợp nhất chủ quan cơ bản. Đã đến lúc mà các đoàn thể nội môn khác nhau (và hiện nay) tách biệt nhau này sẽ phải minh chứng sự đồng nhất của họ, khi những người lãnh đạo, những người hành đạo và các vị thư ký sẽ gặp gỡ nhau và học cách hiểu biết và cảm thông lẫn nhau. Một ngày nào đó sự nhận thức và cảm thông này sẽ đưa họ tới điểm mà họ sẽ nỗ lực để bổ túc cho các cố gắng của nhau, trao đổi các ý tưởng với nhau và như thế thực sự tạo thành một đại học vĩ đại về huyền bí học trên thế giới, với các lớp và các đẳng cấp khác nhau nhưng tất cả đều bận tâm với việc rèn luyện cho những người tìm đạo và chuẩn bị cho họ bước lên đường đệ tử, hoặc là trông nom công việc của các đệ tử khi các vị này tự chuẩn bị để được điểm đạo. Lúc bấy giờ sẽ chấm dứt các cố gắng ngăn chận công việc của nhau như hiện nay bằng cách so sánh các phương pháp và các kỹ thuật, bằng sự chỉ trích, phỉ báng, bằng cách cảnh cáo và đề cao sự sợ hãi (cult of fear), và việc đòi hỏi đặc quyền. Vào lúc này, chính các thái độ và các phương pháp này đang ngăn chận việc đi vào của ánh sáng chân lý thuần tuý.

Những người có đạo tâm trong các trường phái này gặp phải một vấn đề khác với vấn đề về trạng thái tâm thông và trạng thái đồng cốt thông thường. Những người nam và nữ này đã tự cống hiến cho việc luyện trí và đã tự khép mình vào một tiến trình bắt buộc, vốn được dự kiến đưa đoá hoa toàn vẹn của linh hồn đến chỗ khai mở sớm hơn, có thể dùng được một cách nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn để phụng sự nhân loại và để hợp tác với kế hoạch của Thánh Đoàn. Từ chỗ đó, các đạo sinh này tự đưa mình sẵn sàng hứng lấy các nguy hiểm và các khó khăn vốn dĩ có thể tránh được nếu họ chọn đi con đường chậm hơn và cũng chắc chắn hơn. Sự kiện này nên được tất cả các kẻ hành đạo trong các trường phái đó hiểu rõ và vấn đề nên được thận trọng giải thích cho người đang có sở vọng bước vào đường đạo (entering aspirant), để cho y có thể cảnh giác và tuân thủ một cách thận trọng các luật lệ và các giáo huấn. Y không nên để cho sợ hãi hay từ chối đưa chính mình vào tiến trình bắt buộc này, mà y nên tiến vào tiến trình đó với đôi mắt mở rộng và nên được dạy cách tranh thủ các biện pháp bảo vệ được đưa ra và học hỏi kinh nghiệm của các đạo sinh già dặn hơn.

Tất nhiên là cần nhấn mạnh vào tất cả các trường phái nội môn, và chú trọng vào việc tham thiền một cách hợp lý. Nói về mặt chuyên môn, tham thiền là tiến trình mà nhờ đó bí huyệt đầu được khơi hoạt, được đặt dưới sự kiềm chế và sử dụng. Khi xảy ra trường hợp này, linh hồn và phàm ngã được phối kết và dung hợp, sự nhất quán xảy ra, làm cho một dòng năng lượng tâm linh mãnh liệt tuôn chảy vào trong người tìm đạo; thúc đẩy cho toàn bộ con người hoạt động và làm lộ ra cái thiện cũng như cái ác tiềm tàng. Ở đây có ẩn nhiều khó khăn và nhiều nguy hiểm. Lại nữa các trường phái chân chính cũng cần phải nhấn mạnh vào tính thanh khiết và lòng chân thực. Con người thường quá chú trọng vào nhu cầu giữ cho thể xác được thanh khiết mà không nhấn mạnh nhiều vào việc tránh mọi sự cuồng tín (fanaticism) và thiếu khoan dung (intolerance). Hai tính chất sau này cản trở đạo sinh còn nhiều hơn là chế độ ăn kiêng sai lầm có thể cản trở nữa, và chúng mang lại các ngọn lửa chia rẽ nhiều hơn là bất cứ một yếu tố nào khác.

Thiền định bao hàm cách sống một cuộc đời luôn luôn và mỗi ngày nhất tâm tiến tới (One–pointed life). Tất nhiên điều này đặt một căng thẳng quá mức lên các tế bào não bộ vì nó đưa các tế bào bất động vào hoạt động và làm cho ý thức não bộ nhận biết ánh sáng của linh hồn. Tiến trình thiền định được sắp xếp này, khi diễn ra trong nhiều năm và được bổ túc bằng cách sống thiền định và nhất tâm phụng sự, sẽ khơi dậy một cách thành công toàn bộ hệ thống và đưa phàm ngã (lower man) vào dưới ảnh hưởng và sự kiềm chế của chân ngã (spiritual man); việc đó cũng sẽ khơi hoạt các trung tâm lực trong thể dĩ thái và kích hoạt luồng năng lượng huyền bí đang ngủ yên ở chót cột xương sống. Khi tiến trình này được tiến hành với sự bảo vệ an toàn thích hợp và thận trọng, và dưới sự hướng dẫn, khi tiến trình trải ra trong một thời gian dài thì có ít nguy hại xảy đến và việc khơi hoạt sẽ diễn ra một cách bình thường và đúng theo chính định luật hiện tồn. Tuy nhiên, nếu sự điều hợp và khơi hoạt được thúc đẩy hay được mang lại bằng các bài tập thuộc nhiều loại khác nhau trước khi đạo sinh chuẩn bị sẵn sàng và trước khi các thể được phối kết và phát triển, bấy giờ người tìm đạo sẽ bị đẩy về phía tai hoạ. Đừng bao giờ thực hành những bài tập thở (breathing exercises) hay luyện khí công (pranayama training) mà không có người hướng dẫn thành thạo và chỉ sau nhiều năm chuyên tâm phát triển tâm linh (spiritual application) sùng tín và phụng sự; việc định trí vào các bí huyệt trong thể sinh lực (với ý định khơi hoạt các bí huyệt đó) bao giờ cũng phải tránh, vì việc đó sẽ tạo nên sự kích thích quá độ và mở ra các cánh cửa vào cõi cảm dục mà đạo sinh có thể gặp khó khăn khi đóng lại. Tôi không thể gây ấn tượng quá mạnh vào những người tìm đạo trong mọi trường phái huyền linh mà môn yoga trong giai đoạn chuyển tiếp này là yoga có mục đích nhất quán, theo mục đích có định hướng, thực hành không ngừng về Bản Lai Diện Mục (Presence) của Thượng Đế và với sự thiền định được sắp xếp đều đặn, tiến hành một cách có phương pháp và kiên trì qua nhiều năm cố gắng.

Khi việc này được thi hành với lòng dứt bỏ và diễn ra song song với cuộc sống phụng sự theo lòng bác ái, thì việc khơi dậy các bí huyệt và việc đi lên của luồng hoả xà đang ở trạng thái hôn thuỵ sẽ tiến hành một cách an toàn và lành mạnh đồng thời toàn bộ hệ thống sẽ được đưa đến giai đoạn cần thiết, tức giai đoạn “sống còn” (“aliveness”). Tôi không thể khuyên các đạo sinh quá dựa vào việc noi theo các tiến trình thiền định mãnh liệt mỗi lần nhiều giờ, hay là dựa vào việc thực hành mà mục tiêu là làm đi lên (arousing) các ngọn lửa của thể xác, làm khơi hoạt một bí huyệt đặc biệt, và làm thức động hoả xà (serpent fire). Vào lúc này việc kích thích chung trên thế giới thì rất lớn, còn người tìm đạo bậc trung thì nhạy cảm và có cơ thể tinh nhạy đến nỗi việc thiền định quá mức, chế độ ăn kiêng khắc khổ (fanatical diet) rút ngắn giờ ngủ hay là quá chú trọng và nhấn mạnh vào kinh nghiệm tâm thông sẽ làm đảo lộn sự quân bình của thể trí và thường tạo ra cái hại không thể cứu chữa được.

Các đạo sinh trong các trường nội môn hãy bắt đầu chú tâm vào việc làm ổn cố, tĩnh lặng, không dựa vào tình cảm (unemotional). Họ hãy tự kiềm chế không để những giờ nghiên cứu và thiền định kéo dài. Cho đến lúc này các thể của họ đều không có khả năng chịu sự căng thẳng quá mức cần thiết và họ chỉ tự làm hại cho chính mình mà thôi. Hãy để cho họ sống theo các lối sống bận rộn bình thường, ghi nhớ sự thúc bách của bổn phận và cách phụng sự hằng ngày, luôn luôn nhớ rằng về thực chất họ là ai và các mục tiêu cùng cứu cánh của họ là gì. Họ nên thiền định đều đặn mỗi buổi sáng, bắt đầu bằng mười lăm phút và đừng bao giờ vượt quá bốn mươi phút. Mong cho họ tự quên mình bằng việc phụng sự và đừng tập trung sự chú ý của họ vào việc phát triển năng lực tâm thông riêng của họ. Mong sao họ luyện tập thể trí với một mức độ nghiên cứu bình thường và học cách suy tư một cách sáng suốt, sao cho trí của họ có thể làm quân bình các xúc cảm của họ và cho phép họ lý giải một cách chính xác những gì mà họ tiếp nhận được, khi mức độ hiểu biết của họ tăng lên và ý thức của họ mở rộng thêm.

Các đạo sinh cần ghi nhớ rằng lòng sùng tín đối với Thánh Đạo hay đối với Chân Sư vốn không đủ. Các Đấng Cao Cả đang tìm kiếm những người hợp tác và những người phụng sự sáng suốt hơn là tìm kiếm sự tôn sùng cho Cá Nhân của các Ngài, và một đạo sinh đang bước đi một cách độc lập dưới ánh sáng linh hồn mình thì được các Ngài xem như là khí cụ đáng tin cậy hơn là kẻ sùng đạo một cách cuồng tín. Ánh sáng linh hồn của người tìm đạo chân thành sẽ tiết lộ cho người này biết được sự hợp nhất ở dưới mọi nhóm, và giúp y loại bỏ cái độc hại của sự thiếu khoan dung đang làm ô trọc và gây chướng ngại cho rất nhiều người; ánh sáng này sẽ khiến cho y nhận biết được các nền tảng tinh thần đang hướng dẫn các bước tiến của nhân loại, nó sẽ thúc đẩy con người bỏ qua sự cố chấp, sự cuồng tín và sự chia rẽ vốn tiêu biểu cho kẻ có tâm trí hẹp hòi và kẻ sơ cơ trên Thánh Đạo và như thế giúp cho y yêu thương những người này đến nỗi họ sẽ bắt đầu nhìn thấy một cách trung thực hơn và mở rộng tầm hiểu biết của họ; ánh sáng này sẽ cho phép y đánh giá đúng đắn giá trị huyền linh của việc phụng sự và nhất là dạy cho y thực hành đức tính không gây tổn hại (harmlessness) vốn là đặc tính nổi bật của mỗi người con của Thượng Đế. Không gây tổn hại nghĩa là không nói lời nào có thể làm tổn thương người khác, không nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có thể gây độc hại hay tạo ra hiểu lầm, và không làm một hành động nào có thể gây thương tổn, dù tối thiểu, cho huynh đệ mình – đây là đức tính quan trọng nhất sẽ giúp cho đạo sinh huyền môn bước một cách an toàn trên con đường phát triển khó khăn. Khi nào đặt tầm quan trọng vào việc phụng sự huynh đệ mình và chiều hướng của sinh lực được chuyển ra thế giới bên ngoài, bấy giờ mới thoát khỏi nguy hiểm và người tìm đạo mới có thể làm việc, mong mỏi và thiền định một cách an toàn. Động lực của y trở nên trong sạch, và y đang tìm cách phá ngã chấp (decentralise his personality) và chuyển tụ điểm chú ý của mình ra khỏi chính mình để vào tập thể. Như vậy, sự sống của linh hồn có thể tuôn tràn qua y và tự biểu hiện thành tình thương đối với vạn hữu. Y biết được chính mình là một phần của một tổng thể và sự sống của tổng thể đó có thể tuôn đổ qua y một cách hữu thức, đưa y đến việc nhận thức về tình huynh đệ và về tính đơn nhất (oneness) của y liên quan với mọi sự sống biểu lộ.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh