Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn: Đại Khấn Nguyện

SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN: ĐẠI KHẤN NGUYỆN

Đoản Khúc Một (Stanza one)

Khấn xin Quang Minh Lực đem giác ngộ cho muôn người Khấn xin Tinh Thần Hòa Bình lan tỏa khắp muôn phương Mong cho thiện nhân nơi nơi đáp ứng với lòng hợp tác Mong cho chủ âm của mọi người nay là thứ dung

Cầu xin quyền năng đi kèm nỗ lực của Đấng Cao Thâm Mong cho như nguyện, giúp chúng con hoàn tất vai trò thế nhân.

Tháng 10 –1939

Trong đoạn vừa rồi, tôi có đưa ra cho bạn một vài sự kiện liên quan đến Đại Khấn Nguyện và một số giải thích về ý nghĩa và các hàm ý của nó. Các ý nghĩa này có thể cho phép các đạo sinh huyền học trên thế giới ngày nay sử dụng khấn nguyện ấy một cách hăng hái hơn với sự hiểu biết rộng lớn hơn,và tất nhiên là thành công nhiều hơn.

Có một vài công thức thần chú (mantric formulas) và các Quyền Lực Từ (Words of Power) như thế đang được các đạo sinh sử dụng nhưng không hoàn thành được rất nhiều việc vì người sử dụng các công thức thần chú đó không thực sự hiểu biết ẩn ý và mục đích của chúng, và như vậy thường tập trung vào bản chất tình cảm, đạo tâm, cảm dục mà tất cả những gì y nói và làm (liên quan đến các Quyền Lực Từ như thế) đều hoàn toàn vô hại và không hiệu quả. Các Quyền Lực Từ, các thần chú xưa cũ (như là Lời Khấn Nguyện Đấng Cao Cả) và Đại Khấn Nguyện chỉ có hiệu quả nếu được dùng trên cõi trí và với sức mạnh của thể trí có kiềm chế – được tập trung vào ý định và hàm ý của chúng – đằng sau nỗ lực được nói đến. Bấy giờ, chúng trở nên mạnh mẽ. Khi được thốt ra với sức mạnh của linh hồn cũng như với sự chú ý có định hướng của thể trí, chúng tự động trở nên có hiệu quả mạnh mẽ.

Từ nhiều năm qua, các đạo sinh trên khắp thế giới đều sử dụng Thánh Ngữ và đã ngân lên thánh ngữ O.M.một cách thật chuyên cần. Ở đây tôi muốn đưa ra câu hỏi: Có các kết quả gì? Chính tôi sẽ trả lời. Về mặt thực tế, không có kết quả gì ngoại trừ một kích thích nhẹ nhàng đối với đạo tâm và một khơi hoạt nho nhỏ nơi trí tưởng tượng sáng tạo. Điều này có nghĩa là các kết quả đạt được có hiệu quả chỉ trong vòng hào quang của người có liên hệ chứ không xâm nhập vào vùng chung quanh hay tạo ra bất cứ hiệu quả có thể nhận biết được nào. Thánh ngữ O.M. chỉ mạnh mẽ và có hiệu quả mãnh liệt khi được sử dụng đúng và sẽ tạo ra các thay đổi, hủy diệt những gì phải được loại bỏ hoặc kết thúc và sẽ được gắn vào, do sự thu hút và củng cố, những gì được ưa thích thành cấu trúc của sự sống tập thể, ngẫu nhiên tạo ra (tuy chắc chắn) các thay đổi cần thiết và khôn khéo xây dựng lại sự sống cá nhân. Hãy suy gẫm điều này.

Nếu điều nói trên là đúng đối với thánh ngữ O.M. và đối với các hiệu quả tập thể của nó, thì cũng đúng hơn rất nhiều đối với Đại Khấn Nguyện. Các Quyền Lực Từ (và điều này cũng đúng đối với thánh ngữ O.M.) tất cả đều có cội nguồn ở Cung hai. Đây là cung biểu thị tâm thức. Do đó, chúng được dự kiến dành cho linh hồn sử dụng, bởi vì linh hồn là biểu hiện của ngôi hai của thiên tính vì chỉ có linh hồn mới có thể thực sự vận dụng các Linh Từ và âm thanh này, như thế tạo ra các kết quả mong muốn vốn dĩ luôn luôn hợp với Thiên Cơ. Người ta thường quên rằng các Linh Từ đó phải được linh hồn sử dụng theo cách thức mạnh mẽ, bao gồm việc nhận biết nghiêm túc về trạng thái ý chí. Đại Khấn Nguyện, thánh ngữ O.M., và tất cả mọi Quyền Lực Từ như thế phải xuất phát từ linh hồn (bản chất của linh hồn là bác ái và mục tiêu của linh hồn chỉ là mang lại tốt lành cho tập thể), được dựa vào hay “được thúc đẩy về mặt huyền linh” (dùng cách diễn dịch một ý tưởng huyền linh hầu như không thể diễn dịch được) bởi trạng thái ý chí năng động, và thể hiện ra bên ngoài như là một hình tư tưởng hội nhập dựa vào dòng chất liệu sinh động của tâm trí giác ngộ. Do đó tiến trình này làm khơi hoạt trạng thái ý chí, bác ái và thông tuệ của kẻ đang sử dụng các linh từ và các công thức này. Tuy nhiên, thường thường xảy ra gián đoạn ngay cả khi một người đã kết hợp được ba yếu tố kiềm chế này trong chính mình đến mức tối đa so với trình độ tiến hóa đặc biệt của y. Tất cả những gì mà y đã đạt được khi làm là giữ lại hình tư tưởng đã tạo ra trên cõi trí, y không làm cho hình tư tưởng đó xuất hiện trên cõi trần và không đạt được các kết quả như mong ước bởi vì bộ óc của y (trung tâm tiếp nhận và phân phối cấp thấp ở trong đầu) vốn dĩ bất lực đối với hai hoạt động cần thiết, ấy là duy trì sự hiểu biết đối với ý định (tức là ý nghĩa và mục tiêu của công thức đang được sử dụng) và đồng thời, tiến hành nhiệm vụ phóng ra sức mạnh còn ẩn giấu tuy đã được truyền chuyển bằng các Linh Từ hay âm Cả hai hoạt động này phải được linh hồn xúc tiến cùng một lúc trên cảnh giới riêng của nó qua trung gian trí não. Ở đây lại là một trong các mục tiêu của mọi công tác thiền định trừ một mục tiêu vốn không được nhấn mạnh vì đó là một diễn biến theo trình tự chớ không phải là một điều ao ước. Do đó hiệu quả tùy thuộc vào việc hiểu rõ các sự việc nói trên và một sự hội nhập đã phát triển và được luyện tập giữa linh hồn, thể trí, dục vọng, bộ óc và Linh Từ hay âm thanh được thốt ra.

Những gì tôi đang nói với bạn không những chỉ liên quan tới việc sử dụng Đại Khấn Nguyện, mà còn liên quan tới việc sử dụng thường xuyên và hằng ngày Linh Từ (Sacred Word) của các đạo sinh huyền linh và những người tìm đạo trong việc thiền định hằng ngày của họ. Họ có thể thay đổi các cách sống, tái định hướng mục tiêu và tiêu điểm sự sống của họ và tập trung cùng đạt được sự phát triển và mở rộng về mặt tâm linh nếu họ có thể dùng thánh ngữ O.M. như nó nên được dùng. Nếu được hàng trăm ngàn người dùng đúng như họ đã thử sử dụng, thì Đại Khấn Nguyện có thể tái định hướng ý thức của nhân loại, làm ổn định con người trong bản thể tâm linh, làm gián đoạn và kiến tạo lại hình tư tưởng của hành tinh mà con người đã tạo ra trong quá khứ và vốn đã có (và đang có) các kết quả thảm khốc và tai hại như thế, và mở ra cánh cửa vào Kỷ Nguyên Mới, như vậy khởi đầu cho nền văn minh mới và hoàn thiện hơn. Điều này có thể được làm một cách nhanh chóng đến nỗi các thay đổi cần thiết có thể xảy ra hầu như một sớm một chiều. Nỗi khủng khiếp đang ngự trị hiện nay sẽ kết thúc và nhân loại có thể bắt đầu chú tâm vào một cuộc sống với thiện chí tập thể, không làm tổn thương cá nhân và có các liên hệ đúng đắn giữa con người.

Tuy nhiên để khuyến khích bạn, tôi xin nói rằng việc sử dụng Đại Khấn Nguyện, về mặt vật chất, đã thôi thúc các biến cố trên thế giới, cho dù nó đã khuấy động rõ rệt một số lớn nỗi khó khăn và làm cho khó khăn đó hiện ra trên cõi trần. Về căn bản mục tiêu ích kỷ (cho dù không được nhận biết) của những người đã sử dụng Đại Khấn Nguyện để dùng vào việc kích động các mục đích ích kỷ của các thế lực của chủ nghĩa duy vật. Tôi xin hỏi bạn: bao nhiêu người đã dùng Đại Khấn Nguyện với sự hiểu biết đầy đủ, có tác dụng mạnh mẽ về tâm linh và hoàn toàn khách quan? Thật ra rất là ít. Bao nhiêu người thốt ra Đại Khấn Nguyện với một tinh thần bác ái thuần túy và với một thái độ hoàn toàn không thiên lệch? Thật ra rất ít. Bao nhiêu người biết niệm bài Đại Khấn Nguyện này qua một thể trí biết kiềm chế với niềm tin sâu xa rằng Đại Khấn Nguyện đó biểu hiện cho ý chí của Hành Tinh Thượng Đế, và do đó phải trở nên có hiệu quả mạnh mẽ trên cõi trần? Khó mà có được nhiều người như thế. Hầu hết những người sử dụng Đại Khấn Nguyện đều là tò mò do sự mới lạ của bài ấy, hoặc là họ cảm thấy bài ấy có tính cách bao hàm dù là theo một cách không thể hiểu được, hay là xem nó như là phải có hiệu quả về mặt huyền linh bởi vì họ nghe nói rằng bài ấy được một thành viên của Thánh Đoàn đưa ra, được Huyền Giai của hành tinh sử dụng, và được những người tin tưởng ủng hộ, hoặc là vì – lý do hàng đầu trong các lý do – bất cứ điều gì có thể làm cho thế giới tốt đẹp hơn, thuận lợi hơn, hạnh phúc hơn và sau rốt cung cấp các điều kiện sống thoải mái hơn ít nhất phải được thử nghiệm; không cần nói dài dòng và có lẽ rất đáng làm. Nhưng năng lực mạnh mẽ đàng sau nỗ lực trong các trường hợp cá biệt thường là tư lợi cá nhân, nỗi buồn phiền với các tình trạng bất hạnh và khủng khiếp hiện tại trên thế giới và một phản ứng tình cảm lúc gặp đau đớn, khủng khiếp và sợ hãi. Theo nhiều cách, đây là một phản ứng bình thường đối với sự căng thẳng trên thế giới và đáng được mong đợi. Tôi biết rõ, tiêu chuẩn mà tôi đưa ra ở trên thì quá cao và rất khó thực hiện đối với người tìm đạo bậc trung, và đa số đều là kẻ thường nhân (1). Nhưng nhu cầu thế gian thì cần kíp đến nỗi hiện nay, họ phải cố xoay trở ra khỏi mức bình thường và, vì lý do phụng sự, làm mạnh thêm ý thức của họ và tác động một cách rõ rệt hơn từ cảnh giới hiểu biết cao siêu.

Hiện nay, tôi đang tìm kiếm trên khắp thế giới một nhóm người tìm đạo và các đệ tử, họ có thể và sẽ sử dụng Đại Khấn Nguyện đúng cách và tất nhiên họ sẽ tình nguyện được tập luyện để làm thế. Bằng cách này sẽ có một nhóm trên cõi trần và trong cuộc sống hằng ngày họ sẽ có thể phối hợp các nỗ lực của họ với các nỗ lực của Thánh Đoàn và như vậy họ sẽ sử dụng có hiệu quả bài Đại Khấn Nguyện để có kết quả kỳ diệu.

Tôi muốn nhắc nhở bạn rằng với mục đích mở mang ý chí con người và tự do hành động của con người, được thôi thúc bằng ý thức tập thể, Thánh Đoàn chọn cách tạo ra các khai mở và các thay đổi mong muốn trên cõi trần chỉ qua một nhân loại được khơi hoạt hữu thức. Một nhân loại như thế (và nhân loại đó đang nhanh chóng tiến đến tình trạng hiểu biết này nhờ cùng chung đau khổ) sẽ được tạo ấn tuợng và đáp ứng với ý tưởng có hướng dẫn của các Huynh Trưởng đang dẫn dắt của nhân loại, nhưng bất cứ lúc nào cũng sẽ được tùy thích bác bỏ ấn tượng đó và tiến hành như đích thân mình có thể chọn. Không hề có sự kiềm chế bằng uy quyền lên trên thế trí của những người đã được Thánh Đoàn chuẩn nhận hay dạy dỗ; mọi người tìm đạo và các đệ tử đều có tự do chọn một cách thức khác với cách thức được đề nghị nếu họ thích như thế, hoặc là nếu họ thiếu tin tưởng vào tính thích đáng của phương pháp, làm việc đã được nêu ra, hay là e ngại nhiệm vụ gian khổ khi xúc tiến giai đoạn của thiên cơ đã được đưa ra cho họ, hay là nếu họ né tránh giới luật bị ràng buộc và bị đòi hỏi bởi những kẻ tìm cách làm cho con người đáp ứng một cách đúng đắn với sự giao tiếp và dạy dỗ về mặt tinh thần, nhờ thế có thể diễn giải đúng ý định của Thánh Đoàn.

Khả năng dùng Đại Khấn Nguyện sao cho có hiệu quả có thể được mở rộng nếu những kẻ đang làm việc theo các đường lối thiền định chân chính có thể bắt đầu bằng cách sử dụng đúng Linh Từ, vốn không cần một nỗ lực bền bĩ trong việc định trí huyền linh. Họ phải học cách phát ra theo cách thức mà tôi đã chỉ dẫn ở trên khi xướng lên Đại Khấn Nguyện, và cũng phải học cách đánh giá các kết quả của nó trong các kiếp sống riêng biệt của họ, như vậy xét các kiếp sống này theo quan điểm của Nhà Quan Sát tâm linh lão luyện.

Tôi muốn đề cập một cách ngắn gọn và trong một vài phút về ý nghĩa của toàn bộ tiến trình và phương pháp khấn nguyện.

Trong quá khứ, nhiều điều đã được nói và viết ra bởi nhà sưu khảo ham hiểu biết và bởi những người dấn thân vào công tác huyền thuật thuộc bất cứ loại nào liên quan đến việc dùng khấn nguyện khi đem nó áp dụng vào các mãnh lực hành khí và các tác nhân dưới nhân loại, với lời khấn nguyện tiếp theo sau của các tác nhân chủ động và các năng lượng có liên quan thuộc loại này hay loại khác trên cõi trần.

Những gì thường bị bỏ quên là tiến trình này bao gồm toàn bộ việc tạo ra sự tiếp xúc và sự kiềm chế theo sau đối với các mãnh lực của đất, nước, gió, lửa. Đây là một trong các mục đích của những nhà thực hành huyền thuật nhưng nó có liên quan đến bản chất vật chất và sự kiềm chế vật chất, và trong lãnh vực huyền linh học bậc thấp, được liên kết với việc cầu xin, kêu gọi về tiền tài, sức khỏe tốt và các kết quả vật chất hữu hình như được thực hành trong lãnh vực thần bí học của nhiều trường phái tư tưởng. Hãy ghi nhận điều này vì nó nắm giữ manh mối cho sự liên hệ của huyền linh học (occultism) và thần bí học (mysticism) trên các mức độ thấp của ý thức và cho thấy nhu cầu của cả hai nhóm phải chuyển việc tập trung chú tâm của họ và nhấn mạnh vào các giá trị cao siêu và thiên về tâm linh hơn. Việc kiềm chế các mãnh lực thiên nhiên và đáp ứng các tưởng thưởng vật chất mong muốn sẽ đến một cách bình thường và một cách tất nhiên nhưng chỉ dưới hình thức các hậu quả thứ yếu; chúng cũng sẽ tùy thuộc vào nghiệp quả hay vận mệnh của người được nhận ra và được xét đến; và con người sẽ thoát được nguy cơ để cho chính mình bị kiềm chế và thúc đẩy bởi các mãnh lực của chủ nghĩa duy vật, để rồi – như tình hình này phải xảy ra – hứng chịu những gì tệ hại và nguy hiểm.

Sự thỉnh nguyện, khấn nguyện và đưa đến kết quả là hoạt động của Thánh Đoàn và của các Mãnh Lực, Năng Lượng và các Thực Thể vốn không bị kiềm chế bởi vật chất bằng bất cứ cách nào, hay bằng chất liệu nguyên thủy (cực biểu lộ thấp) ngoại trừ các Đấng có liên kết với đối cực tâm linh linh hoạt là một hoạt động mới mẻ và cho đến nay tương đối là một kinh nghiệm chưa được thử thách về phần nhân loại và các công thức (formulas) chưa biết rõ. Có ích gì mà truyền đạt các công thức đó cho nhân loại khi mà cho đến nay nhân loại còn bị chi phối bởi các tiêu chuẩn thấp kém và không thể nắm giữ được khía cạnh linh hồn và không thể tác động trên cõi ý thức của linh hồn. Chỉ những ai sống, làm việc, suy tưởng và cảm nhận với cương vị linh hồn, nghĩa là bao giờ cũng dùng các thuật ngữ tập thể, mới có thể sử dụng các công thức này một cách có hiệu quả.

Tuy nhiên, ngày nay, có nhiều người ở khắp mọi nơi đang nhanh chóng biết được linh hồn như là một yếu tố chi phối trong ý thức, họ ngày càng đáp ứng với các sự việc và các tình hình thế giới với tư cách linh hồn, và do đó, họ có thể được luyện tập để hành động trên cõi trần. Khi việc này xảy ra, thì mới có thể truyền ra một vài trong số các Quyền Lực Từ và thần chú (mantrams) và mới có thể thiết lập hoạt động mới và mạnh mẽ để sẽ đưa Thánh Đoàn và nhân loại vào sự hợp tác hữu thức và trực tiếp, cũng như Shamballa và một số Thần Lực Vĩ Đại đang ở giữa các hành tinh hay thái dương, và cũng là các Năng Lượng vũ trụ vĩ đại. Bây giờ mới có thể khám phá ra những kẻ – được giải thoát trong chính họ và những kẻ đang nhanh chóng học được các dứt bỏ và vô kỷ – có thể thiết lập và tiến hành nhiệm vụ kêu gọi các mãnh lực tâm linh cao siêu này, như vậy làm mạnh thêm các nỗ lực của Đại Huyền Môn (Great White Lodge). Chính tiến trình kêu gọi có tính chất tâm linh này sẽ thúc đẩy tôn giáo mới trên thế giới sắp đến. Đây không phải là sự kêu gọi bằng huyền thuật theo như con người hiểu, và vốn có liên hệ với sự trục triệu và kiềm chế các mãnh lực hành khí và có thực của thế giới biểu lộ, mà thỉnh nguyện đó cốt để kêu gọi sự giao tiếp với các Đấng Tinh Thần và các Năng Lượng thiêng liêng biểu hiện, cũng như với Thánh Đoàn (vốn là trung gian của các Ngài) ngõ hầu đưa đến biểu lộ trên cõi trần linh hồn của nhân loại và các tính chất của sự sống thiêng liêng chủ quan bên trong mà mọi hình tướng bên ngoài đang che khuất. Hiện giờ, lần đầu tiên, điều này có thể xảy ra trong sự sống của hành tinh.

Mục tiêu của các tiến trình thỉnh nguyện này có ba phần:

  1. Kêu gọi linh hồn của nhân loại và như thế đưa tới biểu lộ tự do hơn trên cõi trần. Điều này có thể xảy ra theo hai cách:
    1. Kích thích linh hồn con người ở khắp nơi bằng dòng chảy vào ngày càng tăng của nguyên khí Christ tức nguyên khí bác ái, vốn sẽ tự biểu hiện thành sự cảm thông, thiện chí, hợp tác và hòa bình trên thế giới.
    2. Tạo ra một rung động trong chính nhân loại có sức mạnh đến nỗi nó sẽ thu hút bằng từ lực sự đáp ứng của Thánh Đoàn đang quan sát, trông chờ và mang lại một liên hệ hữu thức cũng như gần gũi hơn nhiều giữa hai trung tâm hành tinh, tức Thánh Đoàn và Nhân Loại.

Điều này được gọi là khấn nguyện Đại Huyền Môn. Nhiều điều trong khấn nguyện này đối với nguyên khí Christ được các tín đồ chân chính ở mọi nơi đưa ra (người theo Cơ Đốc giáo và phi Cơ Đốc giáo) chính họ hướng về Đấng Christ, dưới danh xưng nào mà họ nhận biết Ngài, điều đó không quan trọng, và kế đó, bằng tình thương trong tâm của họ đối với Ngài và huynh đệ của họ, ra sức cải thiện tình hình thế giới, kết thúc oán hờn và đau khổ, biểu lộ thiện chí ở khắp nơi. Điều này liên quan đến giai đoạn đầu, tức giai đoạn kêu gọi sự đáp ứng với tình thương và cảm thông trong tâm trí con người, như là kết quả của việc thỉnh nguyện Đấng Christ và nguyên khí Christ. Hãy suy gẫm về các lời này và xem xét mọi mặt diễn trình tiến hóa. Các đạo sinh huyền bí học có thói quen đánh giá quá mức hiệu quả của công việc mà họ đang làm. Đạo tâm có tập trung và sự tranh đấu không ích kỷ để phụng sự vốn tiêu biểu cho đặc điểm của hàng triệu người trên thế giới, họ khẩn cầu, tuân theo và tìm cách thỉnh nguyện với vị lãnh đạo tinh thần vĩ đại của Thánh Đoàn, tức Chân Sư của các Chân Sư, tức Đức Christ, hiện nay đã đạt đến mức độ có hiệu quả đích thực. Nó có thể và thường thường là không bị pha lẫn bởi nhiều hoạt động trí tuệ hay là nhận thức bằng trí năng về các hàm ý hay là bản chất khoa học đối với phương pháp của họ, vì chính lý do đó, rất mạnh mẽ. Các đạo sinh huyền bí học và huyền linh học hầu như không thể tránh khỏi để lộ ra một tụ điểm phân hóa (divided focus) do bởi hoạt động của thể trí và cho đến nay, họ không tạo được hài hòa một cách hoàn toàn cả linh hồn lẫn phàm ngã. Điều này đưa đến việc tiêu tán năng lượng và thường làm cho ý định tốt của họ thành vô ích. Nhưng trong số các nhóm này đang nhanh chóng xuất hiện những người có thể hoạt động theo đúng đường lối và các kết quả sẽ ngày càng thêm hữu hiệu. Đáp ứng của Thánh Đoàn qua thỉnh nguyện đúng cũng đang tiếp diễn một cách nhanh chóng, tạo ra nhiều hoạt động và đáp ứng của Huyền Giai Ánh Sáng (Hierarchy of Light).

  1. Tạo được mối liên hệ chặt chẽ hơn với trung tâm thứ ba, tức trung tâm thiêng liêng chủ yếu trên hành tinh chúng ta, tức Shamballa. Từ trung tâm đó, Thiên ý được đưa ra và huyền năng (power) của Thượng Đế trở thành vị sứ giả cho ý chí của Ngài. Từ trước đến giờ hình thức năng lượng tâm linh cao nhất đó chỉ đạt tới nhân loại (như trước kia tôi có nói với bạn) xuyên qua Thánh Đoàn. Ngày nay, xem ra điều thích hợp là nên biết chắc xem có đủ số người có ý thức tập thể và không ích kỷ trên hành tinh để đảm bảo cho dòng chảy vào trực tiếp của năng lượng cao siêu đó đến được nhân loại, như vậy tạo ra trên cõi trần một sự thôi thúc của thiên cơ và tiến hành nhanh chóng hơn những gì phải có. Sự giao tiếp trực tiếp này có thể được tạo ra nếu Đại Khấn Nguyện được những người tìm đạo và các đệ tử trên thế giới sử dụng trong sự hợp tác với Thánh Đoàn. Đó là điều mà tôi nhấn mạnh cho tất cả các bạn đang dùng Đại Khấn Nguyện này với tư cách linh hồn và với tư cách những người giao tiếp ở một mức độ nhỏ với Thánh Đoàn. Khi giai điệu (note) của Nhân loại và giai điệu của Thánh Đoàn trở nên đồng bộ nhờ dùng Đại Khấn Nguyện, sẽ có sự đáp ứng mạnh mẽ và ngay tức khắc từ Shamballa, và sẽ nhanh chóng xảy ra những gì mà Thánh Đoàn và các đệ tử trên thế giới mong muốn chứng kiến.

Kết quả sơ khởi của việc sử dụng đúng Đại Khấn Nguyện (đối với nhân loại) là sự gia tốc (acceleration). Như trước kia tôi có nêu ra, sự gia tốc như thế mang theo với nó các rủi ro riêng của nó, và tất nhiên chúng ta có cái bề ngoài của các vấn đề thật khủng khiếp và các biến cố tệ hại mà trong nhiều năm qua đã xảy đến bất ngờ cho những người tìm đạo và các đệ tử trên thế giới. Nhờ tiến trình này, họ học được công việc cứu giúp thế giới và dần dần trở nên thích hợp để thành cột trụ của Đấng Cứu Thế và thành nơi thu hút nghiệp quả xấu. Ở đây, bạn có thể hoàn toàn chính xác khi nêu ra rằng tất cả thế giới hiện giờ đang đau khổ và rằng hai mươi lăm năm qua có những người có nghiệp quả chung và vô phúc nhất trên thế giới. Trong đó có ẩn sự phân biệt giữa thống khổ và đau đớn của thế giới nói chung và nỗi thống khổ của những người tìm đạo và các đệ tử nói riêng hay chăng? Tôi xin trả lời rằng những người tìm đạo và các đệ tử đều có ý thức về nghiệp quả này và các kết quả của nó trong tất cả ba thể cùng một lúc – trong thể trí cũng như trong thể tình cảm với các phản ứng từ xác thân. Điều này làm mạnh thêm sự hồi tưởng về quá khứ (retrospection) và sự tiên liệu mà nhóm lớn hơn không đạt được, vì nó đang dính líu đến toàn bộ phàm ngã. Đặc biệt, trong trường hợp của vị đệ tử, cần phải thêm vào đó sự nhạy bén và năng lực để điều hợp và để làm giảm bớt nỗi đau khổ của thế giới, các phản ứng, các tình huống của thế giới nhờ đó gia tăng một cách mạnh mẽ những gì mà họ có thể hứng chịu được về mặt cá nhân. Năng lực gánh vác và nhận ra sự đau khổ tập thể cũng như hứng chịu nghiệp quả cá nhân của riêng y phần nhiều chỉ làm nặng thêm nhiệm vụ của vị đệ tử.

Do đó, khi tôi kêu gọi những người tìm đạo và các đệ tử trên thế giới sử dụng Đại Khấn Nguyện, tức là tôi cũng kêu gọi họ đi đến việc “hòa mình với các đau khổ của Đấng Christ”; điều này bao giờ cũng mở đầu cho việc làm sống lại hay cho việc giải tỏa ý thức con người vào các lãnh vực hiểu biết tâm linh cao siêu hơn. Các Thần Lực này vốn được tiếp xúc bằng cách dùng Đại Khấn Nguyện, kết hợp với nỗ lực có luyện tập của Thánh Đoàn, nhờ đó được thu hút hay thôi thúc bằng từ lực để đáp ứng và kế đó các năng lực mạnh mẽ có thể được gởi trực tiếp tới trung tâm hành tinh đang chờ đợi, tức Nhân Loại. Hai hậu quả có tính chất cấp bách tất nhiên được gợi ra qua một thời kỳ đặc biệt:

  1. Năng lượng Ý Chí Thượng Đế dùng để khơi hoạt ý– chí–hành–thiện (will–to–good) đã được soi sáng nhưng còn tiềm tàng trong nhân loại, và năng lượng này, khi được khơi hoạt mạnh mẽ, sẽ nở rộ thành thiện chí. Có rất nhiều người mà năng lượng này vẫn còn tiềm tàng và không hề biểu hiện bởi vì ý muốn để biểu lộ thành hoạt động thiện chí không được khơi hoạt, nó sẽ tự động đi lên trong quảng đại quần chúng khi các đệ tử trên thế giới đã thỉnh nguyện, và đáp ứng với dòng lưu nhập của năng lượng mạnh mẽ cao siêu này. Nhân loại đang chờ điều này và việc đi đến của nó tùy thuộc vào các nỗ lực của những người biết những gì cần nên làm và những ai hiện nay sẽ làm cho các lý thuyết tinh thần của họ thành hiện thực trong biểu hiện bên ngoài. Không gì có thể chận đứng sự tiến bộ sau rốt của ý–chí–hành–thiện này và hoạt động được trù tính của nó không nhất thiết là một nụ hoa bắt đầu mở các cánh hoa dưới ánh sáng mặt trời và phụ thuộc vào sự kích thích đúng lúc mới có thể trở lại tình trạng của cái nụ còn khép chặt tiềm tàng mà không bị ép lại. Biểu hiện của những gì có tiềm năng sẽ là kết quả của tác động của mãnh lực cung một, của ý– chí–hành–thiện vào lúc này, được gợi ra bởi các nỗ lực của các đệ tử trên thế giới.
  1. Hậu quả thứ hai sẽ là việc tạo ra hay hợp thành một tam giác hành tinh hay bộ ba có thể nhận ra được vốn sẽ là sự tương ứng giữa ba trung tâm hành tinh đối với tam bộ tinh thần là Chân Thần, Linh Hồn và Phàm Ngã (tức atma– buddhi–manas theo văn liệu Minh Triết Thiêng Liêng). Từ trước đến nay, từ ngữ thẳng hàng (alignment) mô tả đúng nhất tình trạng hành tinh; có một đường thẳng theo đó năng lượng tuôn đổ từ Shamballa đến Thánh Đoàn và từ ThánhĐoàn đến Nhân Loại, nhưng điều này không có nghĩa là không có sự tương tác trực tiếp giữa Nhân Loại với Shamballa. Nếu Đại Khấn Nguyện có thể được làm cho có hiệu quả, thì bấy giờ nhân loại có thể thiết lập được mối liên hệ trực tiếp với Shamballa. Hậu quả là mối liên hệ của tam giác lực sẽ thúc đẩy sự luân lưu của các năng lượng tinh thần giữa ba trung tâm từ điểm này đến điểm khác ngõ hầu sẽ có được mối liên hệ tam phân. Một tiến trình hành tinh qua lại (give and take) giữa cả ba bây giờ sẽ được thiết lập và việc nhấn mạnh vào sự cống hiến (giving) sẽ dễ nhận ra hơn.

Bấy giờ bạn sẽ thấy được ít nhiều về mục tiêu huyền linh nằm đàng sau các từ mà tôi đòi hỏi tất cả các bạn lặp lại liên quan đến Đại Khấn Nguyện:

Hỡi Đấng của Sự Sống và Tình Thương, mà chúng con biết rõ nhu cầu;

Xin giao tiếp với tâm chúng con lần nữa bằng tình thương, Để chúng con cũng có thể yêu thương và hiến dâng.

Chính ý tưởng về sự luân lưu tự do của năng lượng giữa ba trung tâm của thế giới đang làm kích hoạt câu chú này. Việc nghiên cứu câu đó sẽ nêu cho bạn thấy hàm ý và ý nghĩa của các từ ngữ bề ngoài đơn giản, nhưng có thể có hiệu quả rộng lớn và sâu xa hơn là bạn có thể nhận thức được. Việc nhận ra điều này và một công dụng sáng tạo đầy ấn tượng của trí tưởng tượng có thể dùng để đưa thêm mãnh lực to tát hơn cho tư tưởng bạn và cho ý chí hành thiện riêng của bạn khi bạn dùng Đại Khấn Nguyện và thần chú phụ của nó. Chủ âm của Ngôi Một (first aspect) là Hy Sinh, của Ngôi Hai là Bác Ái. Do đó, các từ “để cho chúng con cũng có thể yêu thương và dâng hiến” có thể tạo ra sự tiếp xúc giữa cả hai.

Manh mối cho ý nghĩa của đau đớn và thống khổ cũng sẽ dần dần hiện ra trong ý thức thế gian khi sự nghiên cứu được thực hiện bằng các phát biểu nêu trên. Đau khổ là cách có hiệu quả nhất và nhanh chóng nhất để khơi dậy sự cảm thông trên thế gian và để làm tàn lụi dần các bức tường mà con người đã dựng nên cho biểu hiện của ý–chí–hành–thiện. Một trong các kết quả tích cực nhất của luồng huyền lực Shamballa đang chảy vào nhờ nguyện vọng tập trung của những người tìm đạo và các đệ tử trên thế giới sẽ là việc thừa nhận sáng suốt về các công dụng của đau đớn và thống khổ. Chính chân lý này – bị lệch lạc, áp dụng sai và giải thích một cách ích kỷ – đã đưa một số nhóm người và một số nhóm các đoàn thể đang thống trị trong các quốc gia, chiếm được vị trí mà sự thống khổ do bị hành hạ (thí dụ như trong thời chiến tranh) càng lớn và quá trình khủng bố càng nhiều, thì sự kết thúc mong muốn và chính đáng càng nhanh; họ thường cho rằng các hậu quả của các tình trạng được sắp xếp càng tệ hại, thì sự thành toàn chính xác cần đạt được sẽ càng nhanh hơn. Tuy nhiên, đó không phải là bổn phận hay quyền hạn của con người muốn chuyển mãnh lực của cung một vào các cứu cánh ích kỷ hoặc các mục tiêu vật chất; tinh thần trách nhiệm không thể bị che giấu sau các lời nói úp mở bị lệch lạc và chỉ đúng ở bề ngoài (specious), và điều xấu không thể được làm để cho điều tốt có thể xảy tới. Những gì được Đấng Cai Quản Thế Gian ở Shamballa áp dụng dưới hình thức thúc đẩy bằng tình thương, minh triết và vị tha, với một giao tiếp chắc chắn và một sự phán đoán về cơ hội, thế là không thể dùng được bởi những người bị thúc đẩy do các mục tiêu của phàm ngã, hoặc là theo mức độ cá nhân, hoặc theo mức độ phàm ngã (vì các quốc gia cũng như các cá nhân đều có phàm ngã). Hãy suy ngẫm về điều này và tìm sự giác ngộ nơi linh hồn.

  1. Khi Đại Khấn Nguyện được sử dụng thật đúng như thế và do kết quả đó các trung tâm thế giới trở nên có liên quan với nhau một cách thực tâm, bấy giờ một số năng lượng ngoài hành tinh có thể được Đấng Cai Quản Shamballa triệu dụng để giúp vào việc tái điều chỉnh cần thiết cho Kỷ Nguyên Mới và nền văn minh sắp tới của nó. Các Huyền lực này – có bản chất tâm linh và mạnh mẽ – thuộc vào hai loại: các Huyền Lực từ Thái dương vốn là các Huyền Lực liên hành tinh và thuộc vũ trụ đang tiến vào Thái Dương Hệ chúng ta xuyên qua Mộc Tinh (Jupiter) với vai trò là tác nhân truyền chuyển (transmitter) các năng lượng thiêng liêng từ cung Xử Nữ (Virgo) và cung Bảo Bình (Aquarius) mà Mộc Tinh đang chi phối về mặt huyền bí. Cũng về mặt huyền bí, Xử Nữ là mẹ của hài nhi Christ và do đó là nguồn phát xuất các năng lượng đang bảo dưỡng và sự trợ giúp cho sự tăng trưởng của ý thức Christ; Bảo Bình là biểu hiện sắp tới của ý thức tập thể vốn là khai mở đầu tiên và tức khắc của ý thức Christ bao giờ cũng hiện hữu ở một mức độ lớn trong nhân loại. Về mặt ngoại môn và theo quan điểm của chiêm tinh học chính thống, Jupiter cũng đang chi phối cung Nhân Mã (Sagittarius), cung của con đường đệ tử và cũng chi phối cung Song Ngư, cung của các vị Cứu Thế (world saviours). Do đó, các hàm ý sẽ trở nên hiển nhiên đối với các đạo sinh chân chính.

Khi nghiên cứu các Năng Lượng vĩ đại này, có một ít điều mà bạn có thể làm vượt ngoài việc chấp nhận – nếu bạn cẩn thận làm như thế – các phát biểu của tôi liên quan đến chúng, xem chúng như là các giả thuyết gây chú ý và chỉ có tính cách giải thích. Có ít điều mà bạn có thể làm (hoặc là tôi) để đi đến hiểu biết một cách trực tiếp về các sự thật theo đường lối này. Thậm chí chỉ có một vài vị trong các Thành Viên của Thánh Đoàn mới biết được sự tác động của huyền lực từ các trung tâm ngoài thái dương hệ hay là các nguồn cung cấp sức mạnh thiêng liêng. Chỉ có nhóm các Đấng Đại Định (Contemplatives) trong Thánh Đoàn, còn có danh xưng theo công truyền là các Vị Ứng Thân (Nirmanakayas), mới chịu trách nhiệm đối với ảnh hưởng của các Ngài, bằng bất cứ phương cách có ý thức nào và chỉ bấy giờ khi ảnh hưởng đó đã được giảm hạ bởi một vài bộ phận có thẩm quyền ở Shamballa. Tôi thấy không cần phải nói nhiều thêm về các Ngài cho bạn biết mặc dù tôi sẽ đề cập đến các Ngài lần nữa về sau trong mục này.

Trước khi đề cập đến Đại Khấn Nguyện từng câu một, tôi muốn nói vắn tắt về cách thức cần thiết khi bạn cố gắng đọc lên một cách chính xác và có hiệu quả.

Trước tiên, đừng quên rằng, muốn có diễn tiến cần thiết đưa đến sự chỉnh hợp (alignment) bạn phải làm hai điều:

  1. Nỗ lực một cách hữu thức (hiện nay, đối với đa số các bạn có nghĩa là dùng trí tưởng tượng) để chỉnh hợp hay nối liền linh hồn, thể trí và não bộ, sao cho có một dòng chảy trực tiếp và tự do từ Chân Ngã đến Phàm Ngã.
  2. Nỗ lực để nhận biết hay ghi nhận mối liên hệ của bạn với Thánh Đoàn, xuyên qua nhóm các đệ tử riêng của bạn (nếu bạn biết đó là nhóm nào) hay liên quan với bất cứ vị nào trong số các Đấng Cao Cả hay các Chân Sư phát ra từ chốn thâm sâu nhất trong tâm trí bạn. Nếu không có bất cứ tiếng gọi nào đến với ý thức bạn thì cũng có kết quả sẽ đạt được nếu bạn tìm cách liên kết với Đức

Ở đây tôi có thể nêu ra sự dị biệt giữa việc liên kết những gì mà bạn có thể làm một cách có hiệu quả với những gì được một Thành Viên của chính Thánh Đoàn làm, đó là bạn liên kết xuyên qua Thánh Đoàn và kế đó nhờ trung gian của Đại Khấn Nguyện, đạt đến Shamballa trong khi mà các vị đệ tử điểm đạo và các Chân Sư liên kết chính các Ngài trực tiếp với Shamballa và sử dụng Đại Khấn Nguyện theo một cách hoàn toàn khác với cách mà bạn đang sử dụng. Đối với bạn và người tìm đạo bậc trung, không có sự tiếp xúc trực tiếp và rõ ràng là may mắn cho bạn. Tôi không thể nói rõ hơn nữa.

Điều thứ hai mà bạn thi hành là tự tập trung vào ý thức càng cao càng tốt. Kế đó bạn quyết tâm hướng vào việc quên mình hoàn toàn và khi đạt được điều đó, bạn sẽ hướng sự chú tâm của bạn vào hoạt động song hành của vị đệ tử chân chính mà trước đây tôi có đề cập tới, nghĩa là có nhiệm vụ nhấn mạnh vào việc tìm hiểu về ý nghĩa của các hàm ý và các ý nghĩa của các từ ngữ đã phát ra và về các kết quả phải đạt đến. Kế tiếp là việc ngân lên các từ với mãnh lực ẩn tàng của chúng và điều này phải được bạn thi hành với tư cách linh hồn, dùng trí óc như là các tác nhân.

Sự hội nhập, hoạt động hữu thức và biểu hiện của công việc cần làm trên cõi trần, sẽ bao gồm toàn bộ câu chuyện. Các điều này khi được tiến hành một cách đúng đắn, sẽ mang lại hiệu quả. Muốn cho vấn đề rõ ràng hơn đối với bạn, tôi xin nói rằng:

  1. Sự hội nhập (integration) là một tương ứng (correspon – dence) trong ý thức với sự Hít Vào của hơi thở. Đây là việc triệt thoái ý thức đến một mức càng cao càng tốt.
  2. Hoạt động hữu thức tương ứng với việc sử dụng đúng Khoảnh khắc giao thời (Interlude) giữa lần hít vào với lần thở ra. Nó bao hàm việc nhận biết các mãnh lực được tiếp xúc và mục tiêu của chúng.
  1. Biểu hiện đúng tương ứng với thời kỳ Thở Ra. Đây là việc phóng ra các mãnh lực được tiếp xúc bằng một tác động của ý chí ngõ hầu chúng có thể tạo ra các mục đích mong muốn.

Đừng quên rằng đây phải là một nỗ lực tập thể và phải được tiến hành bằng sự hợp tác với Thánh Đoàn. Nó cũng bao hàm việc nhận thức rằng linh hồn là một và rằng không có chuyện như là linh hồn tôi – mà chỉ có linh hồn chúng ta.

Khi xét đến năm câu đang tạo thành những gì có thể được gọi là huấn lệnh (mandate) của Đại Khấn Nguyện (xem trang 144), trước tiên, tôi muốn đưa ra một vài ý tưởng căn bản nằm bên dưới.

Đại Khấn Nguyện này đã được Thánh Đoàn sử dụng từ năm 1425 của Công Nguyên, mặc dù nó có từ hàng ngàn năm trước. Tuy nhiên, do sự không sẵn sàng của nhân loại để hợp tác vào việc sử dụng nó, các kết quả đã bị trì hoãn và được xem như là “đang bấp bênh” (“hovering”). Tôi không biết cách nào khác để diễn tả các kết quả đã đạt được. Ngày nay, chúng có thể xảy ra bất ngờ, nếu sự hợp tác đúng lúc có thể được nhân loại mở rộng thêm, và sự hợp tác như thế hiện nay dường như có thể xảy ra tức khắc.

Giai đoạn đầu, Cầu xin các Quang Minh Lực đem giác ngộ cho muôn người, rõ ràng là đang thỉnh nguyện các tiềm lực vốn đang ở trên các phân cảnh ý thức của Chân Thần và trên những gì mà về mặt huyền linh được gọi là cõi thứ hai tức cõi biểu lộ thiêng liêng. Các Huyền Lực này bao gồm Đấng Cai Quản Thế Giới và các đấng Tiêu Biểu của bảy hành tinh thánh thiện, các Đấng này được Thánh Kinh Cơ Đốc giáo nói đến như là “Bảy Tinh Quân trước Thánh Tòa” (“Seven Spirits before the Throne of God”). Các Ngài cũng bao gồm ba vị Nhiếp Chính (Agents) của Tam Vị Nhất Thể Thiêng Liêng (Divine Triplicity), mà về mặt huyền bí và ở Đông Phương, các Ngài được biết như là ba vị Thiên Tôn (Kumaras) hay là ba vị Hoạt Động Phật (Buddhas of Activity).

Đối với bạn và đối với Nhân Loại bậc trung, các thánh danh này và các Đấng Cao Cả này có ý nghĩa gì? Không có gì cả và tất nhiên là như thế. Các Ngài vẫn chỉ là các tên gọi và là biểu hiện cho thiên tính chỉ có thể có trong giả thuyết cho đến sau lần điểm đạo thứ ba, khi có thể có nhận thức rõ rệt về Chân Thần; bấy giờ các Thần Lực và Năng Lượng, được nhân cách hóa cho chúng ta trong các Đấng (Lives) cao cả kỳ diệu này, có thể được minh chứng như là có sự hiện tồn đích thực. Trên con đường đi đến các nhận thức căn bản này, ba Đấng Tiêu Biểu của các Ngài bên trong các giới hạn của Thánh Đoàn phải được chấp nhận và được biết là trở thành các Vị Hoạt Động đang tác động một cách tương hợp. Ba Đấng này là Đức Bàn Cổ (Manu), điểm tập trung của cung một tức là Cung Ý Chí hay Quyền Lực; Đức Christ, vị đứng đầu của Thánh Đoàn và là vị tiêu biểu của cung hai, tức Cung Bác Ái Minh Triết; và Đức Văn Minh Bồ Tát (Lords of Civilisation), biểu hiện cho Cung Ba, Cung Hoạt Động Thông Tuệ. Sự hiểu biết này được đạt tới trong tiến trình luyện tập cho ba cuộc điểm đạo đầu. Do đó, tất cả những gì mà ở đây tôi đưa ra cho bạn, phải được xem như có thể thẩm tra được và cũng được minh chứng bởi tất cả các kinh sách trên thế giới và bởi các vị đệ tử điểm đạo ở mọi nơi, nhưng tất nhiên điều đó vẫn chưa được cá nhân bạn chứng nghiệm mãi cho đến ngày khai mở xa xăm sau này của bạn.

Tinh Quân Hòa Bình (The Spirit of Peace), Đấng được thỉnh nguyện trong câu thứ hai (Mong sao Tinh Quân Hòa Bình trải rộng khắp muôn phương), là Đấng thiêng liêng và huyền bí mà Đức Christ đã đến tiếp xúc với Ngài và ảnh hưởng của Ngài đã tác động qua Đức Christ vào lúc mà Ngài có được quyền để được gọi là “Ông Hoàng Hòa Bình” (“Prince of Peace”). Như tôi đã có nói với bạn ở một nơi khác trong các tác phẩm trước của tôi, Đức Christ biểu hiện trong chính Ngài nguyên lý bác ái vũ trụ, biểu hiện của những gì đang biểu lộ sẽ thể hiện như là “vinh danh cho Thượng Đế, hòa bình cho trần thế và thiện tâm cho con người”. Các thiên thần đã minh chứng cho điều này lúc Ngài ra đời. Khi Ngài thể hiện nguyên lý bác ái này trong cuộc sống của Ngài và trong việc phụng sự thế gian, Ngài đã nối liền một cách rõ rệt hành tinh chúng ta và nhân loại (một cách đặc biệt) với Cội Nguồn của ánh sáng, tình thương và sự sống mà chúng ta đang đề cập trong đoạn hai này. Đây là sự cứu thế mà Ngài đã mang lại – một sự thật mà cho đến nay, ít người hiểu rõ và sẽ không được nhiều người nhận biết cho đến khi lời khấn nguyện mạnh mẽ này có được hiệu quả chính xác.

Khi những người tìm đạo và các đệ tử trên thế giới sử dụng Thỉnh Nguyện này thì câu thứ nhất đưa tâm thức đến Huyền Giai Ánh Sáng (Hierarchy of Light) vốn là trung tâm làm trung gian giữa Nhân Loại với Shamballa. Bấy giờ nó dùng để nhấn mạnh và thiết lập mối liên hệ chặt chẽ, phối hợp và trộn lẫn các trung tâm thuộc nhân loại và Thánh Đoàn. Khi điều này xảy ra, thì Thánh Đoàn bấy giờ có thể dùng Đại Khấn Nguyện này với mãnh lực to tát hơn và có thể đưa mối liên hệ đến một trạng thái còn cao hơn nữa và tạo ra sự phối hợp với trung tâm Shamballa, nơi mà các Quang Minh Lực được xem như là hiện thân của Bản Lai Diện Mục và nơi mà năng lượng có tập trung của các Ngài dùng để cung cấp các nguồn ánh sáng và tình thương bao la. Từ trước đến giờ, các điều này không đem lại lợi ích cho sự phân phối trên hành tinh, do việc thiếu mối liên hệ được thiết lập giữa ba trung tâm: Nhân Loại, Thánh Đoàn và Shamballa. Mối liên hệ đó giờ đây đang trở nên được thiết lập phần nào; dòng chảy vào của ánh sáng và tình thương đối với nhân loại hiện giờ có thể xảy ra nếu các đệ tử và những người tìm đạo trên thế giới có thể được hướng dẫn để tạo ra nỗ lực cần thiết để trụ lại trong bản thể tâm linh và, từ thái độ chú tâm sẵn sàng đó, dâng thỉnh nguyện đến các Đấng Cao Cả vĩ đại này. Chính câu chuyện trong kinh Tân Ước (New Testament) đề cập đến điều có thể xảy ra này ở chỗ nói về việc cái hồ nước thỉnh thoảng lại bị Thiên Thần khuấy động, và như vậy tạo ra một tình trạng đưa đến việc chữa lành bệnh tật. Thiên Thần Bản Lai Diện Mục, tức linh hồn của Nhân Loại, như được biểu hiện trong Thánh Đoàn và những ai đang hết sức cố gắng để hành động với tư cách linh hồn, hiện giờ có thể khuấy động các nguồn thần lực và ánh sáng này trên các mức độ dĩ thái ở Shamballa ngõ hầu việc “chữa trị rõ rệt cho các quốc gia” có thể xảy

Khi các ý tưởng nằm sau Đại Khấn Nguyện có thể được đưa ra đủ cao trong ý thức của những người đang sử dụng Khấn Nguyện đó nhờ một nỗ lực liên kết của các đệ tử trên thế giới và Huyền Giai Ánh Sáng – cũng như đang được làm cho mạnh thêm bằng các Quang Minh Lực – thì bấy giờ người ta có thể thỉnh nguyện đến Tinh Quân Hòa Bình.

Trên một vòng xoắn ốc thấp hơn, bạn sẽ ghi nhận được rằng Lễ Wesak đang có vai trò là một khấn nguyện và tiến trình tương tự. Đó là một sự tái diễn và tiến trình luyện tập. Ở đó và vào lúc đó, ba Đấng đại diện cho Shamballa trong Thánh Đoàn – Đức Bàn Cổ, Đức Christ, và Đức Văn Minh Bồ Tát – khấn nguyện Đức Phật, Đấng mà đến phiên Ngài, vốn là tác nhân truyền chuyển các Huyền Lực còn cao siêu hơn nũa. Ngài được thỉnh nguyện bằng một loại thần chú đặc biệt và truyền chuyển thỉnh nguyện đến Đấng Duy Nhất mà Ngài là vị thừa hành Đấng ấy. Nếu Đại Khấn Nguyện mà chúng ta đang nghiên cứu này có thể được đưa ra một cách đúng lúc, thì ba trung tâm hành tinh vĩ đại có thể được liên kết theo một cách thức tương tự. Đức Văn Minh Bồ Tát, Chân Sư R., đại diện cho nhân loại, Đức Christ đại diện cho Thánh Đoàn và Đấng Cai Quản Thế Gian, được liên kết qua Đức Bàn Cổ và đại diện cho Shamballa, có thể được đưa vào liên hệ chặt chẽ sao cho kết quả là tạo nên rung động và âm điệu mạnh mẽ đến nỗi Tinh Quân Hòa Bình (Spirit of Peace) sẽ được thỉnh nguyện và được giao tiếp. Bằng sự thỉnh nguyện được phát ra, sự chú tâm của Ngài sẽ được thúc đẩy để tự quay trở lại về phía hành tinh chúng ta. Kết quả sẽ có ý nghĩa và mạnh mẽ, nhưng về hình thức mà chúng sẽ khoác lấy, tôi không thể nói ra được. Có lẽ nó sẽ đưa đến một minh chứng đặc biệt và mạnh mẽ nào đó về ý nghĩa của hòa bình dưới hình thức sự biểu hiện của bác ái thuộc hành tinh và vũ trụ; có lẽ nó sẽ gây nên việc gởi một Đấng Hóa Thân (Avatar) hay Sứ Giả của Hòa Bình (Messenger of Peace) để dẫn dắt các quốc gia vào hành động công chính; có lẽ một biến cố nào đó sẽ xảy ra có ý nghĩa quan trọng đến nỗi toàn thể nhân loại sẽ nhận ra tức khắc; đưa nhân loại đến chỗ chọn tất cả các giai đoạn cần thiết để phục hồi lại các mối liên hệ đúng đắn của con người. Bản chất của các hoạt động mà Tinh Quân Hòa Bình sẽ thiết lập không thuộc về trách nhiệm của chúng ta. Nhiệm vụ chúng ta là học cách giao tiếp một cách đúng đắn với Thánh Đoàn xuyên qua linh hồn riêng của chúng ta; sử dụng đúng đắn Đại Khấn Nguyện với tư cách linh hồn và tự làm cho chính chúng ta đáp ứng với và bén nhạy với các hậu quả từ đó mà ra. Hãy suy gẫm về điều trên.

Do đó, có thể ghi nhận rằng các Quang Minh Lực thể hiện chính các Ngài qua Huyền Giai Ánh Sáng và hiệu quả chủ yếu của các Ngài là đem lại sự giác ngộ cho trí óc con người bằng tình thương và ánh sáng. Điều này xảy ra nhanh chóng trên cõi trí. Phàm ngã hay khía cạnh sắc tướng của nhân loại, nhờ đó được thấm nhuần và soi sáng. Như vậy, trung tâm hành tinh lớn thứ ba, tức Nhân Loại, trở nên có tính sáng tạo và thu hút, còn hai trạng thái thiêng liêng – thông tuệ và bác ái – sẽ đạt đến kết quả trên cõi trần, làm cho nó có thể chấp nhận được vì trạng thái thứ nhất và ý chí của Thượng Đế (được nhân loại hiểu là Thiên Cơ) phải được tiến hành một cách hữu thức trên cõi trần phù hợp với hoạt động được thiết lập ở Shamballa. Ý chí của Thượng Đế (Will of God) là thiên ý (purpose), và lần đầu tiên, thiên ý này được con người nhận biết một cách rõ rệt.

Khi đến đúng thời điểm, Tinh Quân Hòa Bình sẽ làm cho sự đáp ứng của nhân loại trở nên linh hoạt xuyên qua ảnh hưởng của Thánh Đoàn, đến ý chí của Thượng Đế, ý chí này có ý định căn bản là mang lại hòa bình trên cõi trần. Hòa bình là gì? Về cơ bản đó là việc thiết lập các liên giao đúng đắn giữa con người; lập được quan hệ thân hữu có tính tổng hợp do kết quả hợp tác của quan hệ thân hữu đó mà thiết lập được tương tác chính xác giữa ba trung tâm hành tinh với sự thông hiểu Thiên Ý bằng tình thương và giác ngộ khi Thiên Ý này tác động vào nhân loại và vạch ra đường lối thiêng liêng (divine intent, lẽ trời hay thiên lý). Chính vì lý do này mà Đức Christ, Đấng đã thiết lập lần đầu tiên trong lịch sử hành tinh một sự giao tiếp giữa Thánh Đoàn, Nhân Loại,

  • Shamballa với Tinh Quân Hòa Bình trong chốn cao thâm của riêng Ngài, trong phát biểu đầu tiên được ghi nhận của Ngài có nói rằng Ngài phải lo cho công việc của Từ Phụ của Ngài và kế đó vào cuối đời, Ngài lặp lại cùng ý tưởng bằng các lời lẽ: “Hỡi Cha, không phải ý con mà là ý Cha được thể hiện”, như thế đưa ý tưởng lên đến cảnh giới cao nhất vì Ngài gửi đến Chúa Cha, tức Ngôi Một của Thượng Đế. Kế đó, Ngài tập trung vào chính Ngài hai thuộc tính và trạng thái thiêng liêng chủ yếu – ý chí và tình thương (atma–buddhi) – và vì lý do này, tâm thức của Ngài trở nên ở ngoài hành tinh (extra– planetary) như là tâm thức của Đấng Cai Quản Thế Gian, và bấy giờ Ngài có thể đạt đến một số đỉnh cao hiểu biết và giao tiếp với một số Lực Tác Động thuộc Thái dương hệ (solar Agencies) mà con người từ trước đến giờ không bao giờ giao tiếp được. Thành tựu này đã cho phép Ngài đưa Nhân Loại tiếp xúc được với Tinh Quân Hòa Bình. Như vậy, chính Ngài trở thành Ánh Sáng của Thế Giới và là Hoàng Tử của Hòa Bình (Prince of Peace).

Bằng cách này, Shamballa và Thánh Đoàn được đưa vào mối liên hệ chặt chẽ và hai luồng huyền lực vĩ đại được phối hợp và sự tương tác rõ rệt được thiết lập giữa cả hai. Đức Phật, nhờ đạt được sự giác ngộ, đã lập được khoen nối chủ yếu đầu tiên với các Quang Minh Lực. Nhờ năng lực biểu hiện ý chí của Thượng Đế bằng tình thương và với tư cách Đấng Cứu Thế (world Salvage), Đức Christ đã thiết lập được mối liên kết chủ yếu đầu tiên với Tinh Quân Hòa Bình.

Nếu nghiên cứu kỹ thông tin nói trên, bạn sẽ thấy rằng sự quan trọng của Lễ Wesak vào thời kỳ trăng tròn tháng năm sẽ trở nên ngày càng quan trọng trong trí bạn. Đó là dịp lễ mà ba nhân tố quan trọng đối với nhân loại được liên kết với nhau:

  1. Đức Phật tức là hiện thân hay là tác nhân của các Quang Minh Lực lúc bấy giờ có thể được giao tiếp và những gì mà các Ngài tìm cách truyền đạt cho nhân loại có thể được chuyên dụng một cách hữu thức.
  2. Đức Christ, hiện thân của tình thương và ý chí của Thượng Đế và tác nhân của Tinh Quân Hòa Bình cũng có thể được giao tiếp và nhân loại có thể được luyện tập để chuyên dụng loại năng lượng ngoại hành tinh này.
  • Qua Đức Christ và Đức Phật, bấy giờ nhân loại có thể thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với Shamballa và bấy giờ mới đóng góp được phần riêng của mình – với tư cách là một trung tâm thế giới – vào sự sống hành tinh. Được thấm nhuần bằng ánh sáng và được kiềm chế bởi Tinh Quân Hòa Bình, biểu hiện của ý–chí–hành–thiện của nhân loại mới có thể tỏa ra một cách mạnh mẽ từ trung tâm hành tinh thứ ba này. Bấy giờ nhân loại sẽ lần đầu tiên nhập vào nhiệm vụ được dành riêng cho mình với tư cách là tác nhân trung gian thông minh, bác ái giữa các trạng thái cao của ý thức hành tinh, tức các trạng thái siêu nhân loại với các giới dưới nhân loại. Như vậy nhân loại sau rốt sẽ trở thành kẻ cứu trợ trên hành tinh (planetary saviour).

Nếu bạn có các ý tưởng này trong trí, thì ba câu đầu tiên của Đại Khấn Nguyện sẽ bao hàm ý nghĩa to tát. Tôi xin đưa ra một vài ý nghĩa dưới hình thức liệt kê như sau:

Mong cho các Quang Minh Lực mang lại sự giác ngộ cho nhân loại.

Trung gian.............................. Thánh Đoàn. Linh hồn thức

(Soul consciousness) Tác nhân Đức Phật (Buddha)

Biểu hiện................................ Ánh Sáng, Hiểu Biết. Thể trí giác ngộ

Các cõi quan trọng................ Cõi thứ hai hay cõi Đại Niết Bàn

Cõi Bồ Đề hay cõi Trực Giác Cõi Trí

Điểm tập trung..................... Bí huyệt đầu.

Trung tâm hành tinh........... Thánh Đoàn

Mong cho Tinh Quân Hòa Bình hiện hữu khắp nơi.

Trung gian.............................. Shamballa. Linh thức

Tác nhân................................ Đức Christ

Biểu hiện............................... Thiên ý dưới hình thức tình thương

và hòa bình

Đáp ứng hữu cảm thức (sentient Response)

Các cõi quan trọng................. Cõi Tối Đại Niết Bàn hay là cõi

Thứ nhất

Cõi Bồ Đề hay là cõi trực giác Cõi cảm dục hay là cõi tình cảm

Điểm tập trung...................... Bí huyệt tim

Trung tâm hành tinh............. Shamballa

Mong sao thiện nhân nơi nơi đáp ứng với lòng hợp tác

Trung gian.............................. Chính nhân loại. Ngã thức Tác nhân............................................... Đức Văn Minh Bồ Tát

Biểu hiện................................ Bác ái sáng suốt, hiến dâng cho

Thiên Cơ Sáng Tạo Ý–chí–hành–thiện

Các cõi quan trọng................ Cõi Niết Bàn hay cõi Ý chí tinh thần

Cõi trí

Minh họa chung về thế giới

Cõi hồng trần Điểm tập trung Bí huyệt cổ họng

Trung tâm hành tinh............. Nhân Loại

Như vậy tất cả các trung tâm lớn đều được nối liền và tất cả các cõi đều được liên kết với nhau; quá khứ đã đóng góp công việc hoàn tất của nó; hiện tại đang khơi dậy sự phát triển đúng đắn và duy nhất của nó; tương lai với khả năng thiêng liêng và kỳ diệu đang hiện ra– các kết quả của nó phụ thuộc vào tinh thần hiểu biết đúng và thỉnh nguyện đúng đắn. Bấy giờ, ba câu nói trong kinh Tân Ước bắt đầu chứng tỏ ý nghĩa cao sâu huyền bí của chúng và sức mạnh linh hoạt đáng thán phục của chúng:

Ta là Ánh Sáng của Thế Gian Các Huyền Lực của Linh Quang

Câu 1. Ngôi Hai

Ta ban cho ngươi sự an bình Tinh Quân Hòa Bình

Câu 2. Ngôi Một Hãy yêu thương kẻ quanh............................ Những kẻ thiện chí

ngươi như chính ngươi Câu 3. Ngôi Ba

Ba Ngôi Thánh linh trong con người đạt đến biểu lộ thực tiễn nhờ ảnh hưởng của Đại Khấn Nguyện, cả trong sự hữu ích linh hoạt lẫn trong sự hiểu biết đích thực – đích thực ít nhất đến mức mà trình độ tiến hóa hiện nay của con người cho phép đối với sự hiểu biết chính xác ý nghĩa của con người. Dưới hình thức biểu hiện thực tiễn và có thể có được của tình thương, thiện chí (goodwill) biểu lộ trên cõi trần, đang gợi ra mối liên hệ đúng đắn; dưới hình thức biểu hiện của Thánh Đoàn, ánh sáng đang tuôn đổ vào ý thức nhân loại, tỏa ra khắp mọi chỗ tối tăm và đang gợi ra sự đáp ứng từ mọi hình thức sự sống trong ba cõi biểu lộ và trong ba giới dưới nhân loại qua nhân loại; dưới hình thức biểu hiện cho ý chí của Shamballa, hòa bình (peace) tạo ra sự quân bình, trạng thái cân bằng, sự tổng hợp và sự cảm thông, cộng thêm với một tinh thần thỉnh nguyện mà về cơ bản là một tác động tạo ra phản tác động. Điều này biểu hiện dưới hình thức công cuộc sáng tạo vĩ đại đầu tiên và công tác có tính cách huyền thuật mà nhân loại có thể xoay chuyển tất cả ba ngôi thiêng liêng vào một hoạt động cùng lúc phù hợp với ý chí của Thượng Đế, như nhân loại đang làm.

Bây giờ chúng ta đi đến hai câu cuối cùng, hai câu này tóm tắt các hiệu quả – có tính tổng hợp và vĩnh cửu (và tất nhiên là kéo dài) – mà việc thiết lập mối liên hệ trực tiếp với Shamballa sẽ tạo ra trong hai trung tâm hành tinh kia, tức Thánh Đoàn và Nhân Loại. Tôi đề cập đến các hiệu quả vốn sẽ tự biểu hiện dưới hình thức hoạt động tập thể, được thúc đẩy bằng các giá trị thiết yếu của lòng vị tha và nỗ lực bền bĩ (sau rốt, vốn là sự định trí kiên trì) và nhờ đó tạo ra các tình trạng mà Đấng Cai Quản Thế Gian, tức Đấng Thái Cổ (Ancient of Days), đã chờ đợi từ lâu. Sự kiên nhẫn và tình thương bền bĩ của Shamballa vốn vô hạn.

Câu thứ tư diễn tả: Mong sao chủ âm nơi mọi người là khoan dung vào lúc này. Như bạn rõ, từ ngữ “khoan dung” (“forgiveness”) là một từ ngữ lạ thường (curious) và đặc biệt (unusual), nó mang ý nghĩa (tùy theo cội nguồn xuất phát rõ rệt nhất) đơn giản là “cống hiến cho” (“to give for”). Do đó khoan dung không đồng nghĩa với xá tội (pardon) mặc dù trong giới thần học, từ ngữ này đã bị bóp méo để mang ý đó; thế nên, rất ít Giáo Hội hiểu được mãnh lực thúc đẩy cơ bản đàng sau biểu hiện thiêng liêng này trong thái dương hệ của chúng ta. Các nhà thần học bao giờ cũng suy tưởng bằng các thuật ngữ của trí người (human mind) (1) chớ không bằng thuật ngữ của trí thiêng liêng (divine mind) (2). Khoan dung là hy sinh và là từ bỏ (give up) tư ngã của mình (one’s self), ngay cả từ bỏ chính sự sống của mình nữa, vì những kẻ khác và vì lợi ích của toàn bộ tập thể. Tinh thần hy sinh này bao giờ cũng hiện ra khi huyền lực từ Shamballa được tiếp nhận đúng, cho dù ở mức độ nhỏ nhất và xung lực nằm bên dưới đàng sau ý chí bác ái của Thượng Đế được nhận biết và hiểu rõ, vì điều này luôn luôn đi kèm với ước muốn tham dự vào ý chí đó và tinh thần hy sinh thiêng liêng của nó. Biểu hiện của chính nó là sự Tha Thứ Vĩ Đại. Các Đấng huyền vi bên ngoài cuộc sống biểu lộ – đi vào biểu lộ, ngõ hầu hy sinhchính các Ngài cho các sinh linh và các hình thức sự sống thứ yếu ngõ hầu các sự sống thứ yếu này có thể được phép tiến tới một mục tiêu mà chỉ có một mình Thượng Đế biết được, và như vậy, sau rốt đạt đến các chốn cao thâm của biểu hiện tâm linh. Sự thành tựu bao giờ cũng được theo sau bằng sự hy sinh và cống hiến của cái quan yếu cho cái thứ yếu. Đây là một khía cạnh của Luật Tiến Hóa. Đó là chủ âm và chủ đề của toàn bộ tiến trình sáng tạo và là ý nghĩa căn bản của câu “Thượng Đế là Tình Thương” vì tình thương có nghĩa là cống hiến và hy sinh, ít nhất là trong thái dương hệ này.

Chính vì lý do này mà giáo huấn nội môn nhấn mạnh sự kiện rằng linh hồn con người là một Tinh Quân của sự Hy Sinh và của lòng sùng tín bác ái bền bĩ – hai tính chất nổi bật của các Đấng Cao Cả ở Shamballa, duy trì sự sống và sự ban phát. Đây là lòng sùng tín bền bĩ dành cho mặt tốt lành của tổng thể hay là biểu hiện của tinh thần tổng hợp và hy sinh, ngõ hầu một lần nữa mọi sự sống thứ yếu (như là các sự sống thể nhập (embodied) trong phàm ngã của con người) có thể xuất hiện đưa đến sự “phục sinh vốn có ở trong Đức Christ”, qua thập giá hình hay sự hy sinh của linh hồn trên thập giá của Vật Chất (Cross of Matter).

Lần nữa, chính ý tưởng này mang lại ý nghĩa cho cách sống của Đức Christ trên cõi trần và Ngài diễn lại cho chúng ta tiến trình vĩnh cửu, thể hiện tiến trình đó bằng phương cách thành công đến nỗi nó trở thành biểu tượng của động lực thúc đẩy của toàn thể vũ trụ biểu lộ và cái xung lực vốn dĩ sẽ hướng dẫn mỗi người trong chúng ta – thập giá hình và sự chết, sự phục sinh và sự sống và do đó là sự cứu vớt đối với tổng thể.

Chính ý tưởng này đang được biểu hiện trong hiệu lệnh của câu thứ tư này của Đại Khấn Nguyện, và theo sát nghĩa là “Mong cho mọi người ở khắp nơi đáp ứng với chủ âm của vũ trụ và xả thân vì kẻ khác”.

Và phải chăng bằng phương cách yếu ớt và mơ hồ, đây không phải là chủ âm hiện nay đối với nỗ lực của nhân loại? Mặc dù không thể thực sự suy tưởng một cách trung thực, một cách có hiệu quả và bằng trực giác, đa số con người ở mọi nơi đều đáp ứng rõ rệt và dứt khoát với chủ âm về sự hy sinh này. Các nhà lãnh đạo của các quốc gia lớn ở khắp nơi đều đang dùng chủ âm này và kêu gọi sự hy sinh bằng cách gợi sự thức tỉnh hiện nay đối với dân chúng của họ. Người dân Đức bị các nhà lãnh đạo của họ lôi cuốn vào chiến cuộc với sự thử thách lòng hy sinh và được cho biết rằng họ phải cống hiến cuộc sống của họ ngõ hầu nước Đức có thể sống còn. Khi nghiên cứu những bài diễn văn của các nhà lãnh đạo Đức quốc, người ta sẽ thấy được điều ghi nhận này. Còn nhóm kia, mà bạn gọi là Đồng Minh (Allies) (bởi vì họ đại diện một cách đặc biệt hơn cho thiện ích (the good) của tổng thể chớ không cho thiện ích của quốc gia hay đơn vị riêng biệt nào) cũng đang kêu gọi khối dân tộc của họ chiến đấu cho thiện ích của nền văn minh và cho việc bảo tồn các giá trị kế tiếp trên thang tiến hóa và thiết yếu cho thiện ích chung. Việc đưa ra các lời kêu gọi này và các mục tiêu được đưa ra có thể khác nhau trong cách trình bày, nhưng chủ đề thì giống nhau và hiệu quả là phát huy tinh thần hy sinh trong các quốc gia. Mặc dù các động lực ở sau lời kêu gọi như thế có thể bị pha trộn và các nhà lãnh đạo được hướng dẫn như vậy do lợi ích và các quan tâm ích kỷ, có tính cách quốc gia, cũng như do thiện ích chung, tuy nhiên họ biết được rằng chủ âm đó sẽ gợi ra một đáp ứng ngay tức khắc từ phía đơn vị và cá nhân mà về căn bản là thiện ích của đơn vị lớn hơn (tức quốc gia hay nhóm các quốc gia). Do đó, sự tha thứ hoặc hy sinh để cứu giúp những kẻ khác là chủ âm cần thiết được ghi nhận vào lúc này và trong nhận thức này có ẩn nhiều điều cần chứng thực câu chuyện đáng tiếc của các diễn trình tiến hóa và các phương pháp đã qua. Khi người ta nhận ra rằng “việc ban phát” (“giving–for”) bao hàm cách sống chính trực (right living) trên cõi trần chớ không phải (theo như người ta thường nghĩ) cái chết (the dying) của thể xác, kế đó chúng ta sẽ thấy một thế giới được hồi sinh. Đó là Đức Christ sinh động (Đấng Cứu Thế sinh động), Đấng đang cứu độ nhân loại. Từ ngày này sang ngày khác, chính sự hy sinh trong tiến trình sinh hoạt hằng ngày mới có thể cứu giúp thế giới con người – hy sinh các lợi ích cá nhân ích kỷ, đổi lấy lợi ích chung và từ bỏ sự sống thực tiễn của con người để cứu giúp thế gian. Đó là cách sống để cho kẻ khác cũng có thể sống, vốn là chủ đề của kinh Tân Ước. Do đó, khi cách hy sinh bước vào lãnh vực có giá trị tinh anh và thuộc nội tâm, còn ý nghĩa thực sự của lòng tha thứ được hiểu bằng trí tuệ, một cách thực tiễn và bằng tâm linh, thì Kỷ Nguyên Mới sẽ được nhận thức đầy đủ với nền văn minh thật sự của con người và một nền văn hóa vốn sẽ biểu hiện cho các thực tại của giáo huấn nội môn, cũng là giáo huấn có hiệu quả nhất được đưara trong quá khứ. Bấy giờ và chỉ lúc bấy giờ khoa huyền bí học tân kỳ mới được tiết lộ cho nhân loại, tức những người đã làm cho đạo tâm biến thành hiện thực bằng kinh nghiệm ngoài đời của họ. Thái độ của quần chúng trong cuộc xung đột hiện nay là đảm bảo cho điều này và cũng là bằng chứng cho sự thành công trong nhiệm vụ của Đức

Kết quả của những gì đang xảy ra ngày nay, sớm hay muộn gì, đều phải tạo ra sự nhất quán (at–one–ment)(1) giữa mọi quốc gia với mọi dân tộc. Theo định luật tiến hóa, sự nhất quán bao giờ cũng là kết quả của sự hy sinh. Sự hy sinh của Đức Christ là tượng trưng và đảm bảo cho điều này, vì cuộc đời và các hoạt động của Ngài được thôi thúc bởi Tinh Quân Hòa Bình. “Như vậy, khi làm cho hòa nhau, Ngài muốn lấy cả hai lập nên một người mới trong Ngài”. (phesians 2:15) (2) thế nên, ngày hôm nay từ trong nhị nguyên tính của linh hồn và thể xác, nhân loại đang đạt được các mục đích giống như vậy và kết quả của giai đoạn cuối cùng này của Kỷ Nguyên Song ngư sẽ là sự dung hợp trong ý thức của linh hồn và thể xác. Kỷ nguyên Bảo Bình sẽ cho thấy biểu hiện của sự nhất quán này ngày càng nhiều, được thể hiện trong nỗi đau cực điểm (crucifixion) của nhân loại hiện nay. Sự dị biệt giữa giai đoạn sắp tới này với giai đoạn đã qua là ở chỗ, trong quá khứ, linh hồn đã tìm kiếm sự phát triển và sự nhất quán này và (theo quan điểm tiến hóa) điều đó đã được đạt đến một cách chậm chạp và từ từ, nhưng trong tương lai, nó sẽ được cố tâm tìm kiếm, được đạt đến và được nhận ra bởi con người trên cõi trần như là kết quả của giai đoạn hiện tại để “cống hiến cho” tổng thể, cái tuyệt diệu mà cá nhân có thể đưa ra.

Tôi xin nêu ra rằng giống như các năng lượng được phóng rải do việc dùng ba câu đầu tiên của Bài Đại Khấn Nguyện liên kết với bí huyệt Đầu, tức Shamballa, với bí huyệt Tim, tức Thánh Đoàn, và với bí huyệt cổ họng, tức Nhân Loại, cũng thế, việc sử dụng đúng câu thứ tư này sẽ mang lại hoạt động hữu thức, tác động vào bí huyệt giữa hai mày, tức bí huyệt Ấn Đường trong con người cá biệt và trong nhân loại nói chung. Bí huyệt này bắt đầu trở nên linh hoạt và bắt đầu tác động mạnh mẽ, chi phối và điều khiển các năng lượng cá biệt, khi bất cứ mức độ thật sự nào của sự hội nhập phàm ngã được đạt đến. Như bạn biết, chính bí huyệt thứ tư này ở phía trên cách mô trong cơ thể người và câu làm khơi hoạt nó (cả về mặt cá nhân lẫn tập thể) là câu thứ tư này. Do đó, có một mối liên hệ bằng số. Khi con người biết sử dụng một cách khôn ngoan và sáng suốt thì nhiều tiềm lực trong số các tiềm lực pha trộn mà ba câu đầu tiên đang có sẵn, được kêu gọi đến và như thế sẵn sàng dùng được cho cá nhân cũng như cho tập thể. Lúc bấy giờ các tiềm lực đó có thể được tập trung cho con người sử dụng ở các bí huyệt ấn đường. Do đó, bằng nhiều cách, câu thứ tư này trong Đại Khấn Nguyện, có tầm quan trọng hàng đầu đối với cá nhân cũng như đối với nhân loại, vì nó đang khơi dậy các tiềm lực quan trọng thiết yếu và nêu ra tiến trình (hy sinh) và mục tiêu, cộng với sự đồng nhất hóa của đơn vị và tập thể với ý định căn bản đó là sự biểu lộ.

Câu thứ năm, Xin cho huyền năng đi kèm với các nỗ lực của các Đấng Cao Cả, được nối kết một cách rõ rệt với hiệu quả trong Thánh Đoàn đối với việc sử dụng một cách hữu ích Đại Khấn Nguyện, cũng như công dụng trước kia được nối kết với hiệu quả trong con người. Hiệu quả này trong Thánh Đoàn là hiệu quả tương đối mới và là do sự tham dự của nhân loại vào diễn trình thỉnh nguyện, như vậy tạo ra các hiệu quả và các giao tiếp mới mẻ. Đó là nỗ lực hợp nhất của hai trung tâm lớn rất là quan trọng mà tôi muốn bạn tập trung vào đó. Khi thốt lên như thế là con người đưa ra tầm quan trọng của thỉnh nguyện từ phía nhân loại và nỗi mong muốn ở sau các nỗ lực thuộc thời xưa cũ của Thánh Đoàn và, hiện nay, lần đầu tiên, có thể xảy ra thực sự ở một mức độ rộng lớn. Trong bao nhiêu thiên kỷ, Thánh Đoàn đã tranh đấu một mình để trợ giúp, nâng cao nhân loại và để kích động sức mạnh của trung tâm nhân loại trên hành tinh sao cho hoạt động rung động của nó sau rốt đủ mạnh để đưa nó vào phạm vi hay lãnh vực thu hút đối với hoạt động của Thánh Đoàn. Nhiệm vụ lâu dài này sau rốt đã đạt được thành công. Cuối cùng Thánh Đoàn và nhân loại có được mối quan hệ khắng khít (en rapport). Đây là phản ảnh hay sự tương ứng cao siêu đối với những gì xảy ra trong ý thức của con người kẻ mà – nhờ đã đạt tới giai đoạn đệ tử – đang ở mức độ pha trộn ánh sáng của phàm ngã (khi nó được biểu hiện qua bí huyệt ấn đường và ngoại hiện của nó, tức tuyến yên) với ánh sáng của linh hồn (đến phiên nó, khi nó được thể hiện bằng ánh sáng trong đầu hay bằng bí huyệt đầu và ngoại hiện của nó là tuyến tùng quả).

Do đó, bạn nên ghi nhận lại ý nghĩa thực tiễn của các câu thứ tư và thứ năm này của Đại Khấn Nguyện. Một câu dùng để nâng cao nhân loại (với tư cách một trung tâm hành tinh) đưa đến hoạt động và nhận thức, còn câu kia dùng để giúp Thánh Đoàn trong các nỗ lực xưa cũ sao cho cả hai lúc bấy giờ liên kết các lãnh vực từ điện của nhau và tạo ra sự pha trộn và một sự tổng hợp vốn dĩ sẽ đưa đến biểu hiện đầy đủ của linh hồn có thiên tính qua trung gian của nhân loại. Hãy suy gẫm về phát biểu này.

Trong giáo huấn nội môn, điều này xảy ra trong kiếp sống của cá nhân khi mà – bằng tác động của ý chí – bí huyệt ở chót xương sống đi lên và ngọn lửa cùng ánh sáng của sự sống tam phân của phàm ngã (một trạng thái thường được gọi là lửa hỏa xà) được đưa lên và hòa lẫn với sức mạnh và ánh sáng của linh hồn. Việc tiếp cận chủ yếu của hai năng lượng căn bản của sắc tướng và linh hồn (với tư cách một biểu hiện của tinh thần) nhờ đó được nối liền bên trong con người; “cuộc hôn nhân ở cõi trời” (“marriage in the heavens”) xảy ra và nhiệm vụ của tiến trình sáng tạo để luân hồi hay biểu hiện cá nhân đang đi đến chỗ hoàn tất. Bên trong sự sống hành tinh, cùng một diễn trình đang xảy ra. Sự sống của nhân loại nói chung (vốn là sự sống hình hài sáng suốt) và sự sống của Thánh Đoàn (vốn là sự sống của linh hồn) dưới sự thôi thúc của tinh thần hay trạng thái ý chí như được tượng trưng ở Shamballa, được pha trộn, phối hợp và kế đó một sự khởi đầu mới trong diễn trình tiến hóa có thể xảy ra. Thiên giới, vốn là giới của linh hồn và giới nhân loại, khi biểu hiện lẫn nhau và có liên hệ hỗ tương, được tổng hợp một cách hoàn hảo và bám chặt trên cõi trần. Sự vinh quang của Đấng Duy Nhất bấy giờ có thể được nhận thấy một cách yếu ớt, vốn là vinh quang của Shamballa. Kẻ Chận Đường ở ngưỡng cửa thiêng liêng và Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục bấy giờ đối diện với nhau.

Đây là tình huống ngày nay. Ngày mai, cả hai sẽ phối hợp và tổng hợp lại, rồi sự huy hoàng của Thượng Đế sẽ xuất hiện trên cõi trần. Cuộc đại tiếp cận thứ hai sẽ được đạt đến.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo
TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh