Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn: Đại Khấn Nguyện 2

SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN: ĐẠI KHẤN NGUYỆN 2

Tháng 9 – 1940

Sau khi nghĩ kỹ, đối với tôi dường như sẽ đáp ứng với mục đích hữu ích nhất nếu tôi làm sáng tỏ phần nào chủ đề của Khấn Nguyện mới này và cũng bàn đến ý tưởng về sự can dự thiêng liêng. Có nhiều suy tư lỏng lẻo trong mối liên hệ này, do bởi chân lý, cũng như cách giải thích sai lầm giáo lý của đạo Thiên Chúa liên quan đến sự tái lâm của Đức Christ. Các trí óc ưa phân tích thiên về thần học của con người đã làm lệch lạc sự thiên khải của Thượng Đế, và tôi cũng muốn làm một điều gì đó để tạo ra một thái độ khôn ngoan hơn đối với sự thực về việc tái lâm tất yếu này. Lối suy tưởng lỏng lẻo này đang ngăn chận nhiều công việc hợp tác sáng suốt. Tôi muốn nhắc nhở bạn rằng sự thành công của khấn nguyện và công hiệu thực sự của lời khấn nguyện tuỳ thuộc vào sự suy tư rõ ràng, chớ không tuỳ thuộc vào ước muốn tình cảm hoặc một phức cảm do ước muốn mạnh mẽ. Chúng cũng tuỳ thuộc vào một sự mới mẻ năng động nào đó và lòng nhiệt thành vốn khó đạt đến trong thời điểm căng thẳng và khẩn trương này. Thời điểm hiện nay đặc biệt khó khăn. Có lẽ việc hiểu rõ hơn về bản chất và mục tiêu của sự can dự thiêng liêng có thể làm sáng tỏ vấn đề phần nào.

Đối với người suy tư hời hợt (casual thinker) và môn sinh huyền linh chưa lão luyện, có thể rằng – xét trường hợp một vị Thượng Đế Toàn Năng (almighty Deity) hoặc Hành Tinh Thượng Đế (Planetary Logos) – với một ít khó khăn và nhiều hữu ích, và lòng từ ái, Ngài có thể can thiệp vào tình huống thế giới đáng buồn này và mang lại một kết thúc cho trận chiến của các quốc gia qua trung gian của một biến cố ngoạn mục, một tai hoạ thảm thương nào đó của tiến trình tự nhiên hoặc một xuất lộ siêu việt (supreme appearing) nào đó vốn đang tác động đến nhiều điều tốt lành. Có thể cần phải tranh luận, thuyết phục các nhóm gây hấn, ưa công kích rằng thời đại của chúng đã kết thúc và rằng nỗ lực của chúng tốt hơn là nên kết thúc ngay tức khắc. Đó là một vấn đề tương đối đơn giản, nhưng các luật thiên nhiên, tự do ý chí của chính con người và tất nhiên là của nghiệp quả, sẽ kết hợp để ngăn chận một sự can thiệp vào đúng các thời kỳ này. Điều này không có nghĩa là một hình thức can thiệp nào đó không thể xảy ra, nhưng việc can thiệp đó phải hợp với định luật, việc can dự này đừng nên xen vào quyền vận dụng các sự việc riêng của nhân loại và phải được chọn thời điểm thế nào để cho có thể đạt được các kết quả tốt nhất và tối đa.

Trước tiên, tôi xin đề cập đến ba điểm mà tôi đã đưa ra ở trên, đó là định luật thiên nhiên, tự do ý chí và nghiệp quả. Khi làm thế là tôi có thể tiếp tục làm sáng tỏ một vài suy tư thiếu sáng suốt của nhiều đạo sinh.

Định luật thiên nhiên (natural law) là việc tác động không thể tránh khỏi trên cõi trần của các lực và năng lượng vốn đã được tạo ra từ lâu. Con người có thói quen suy tưởng rằng các lực và năng lượng này phải nằm ngoài sự kiềm chế của con người và tạo thành một phần của ý chí không thể hiểu được (inscrutable will) của Thượng Đế, và rằng con người không có liên quan gì đến các lực và năng lượng này. Khi nào hiểu được rằng một số khía cạnh của luật thiên nhiên có liên quan thuần tuý với các mãnh lực – dưới mặt đất, trên mặt đất và trên không – của hành tinh chúng ta, thì tiền đề sẽ xem như là chính xác theo tình huống hiện tại của các cách hành xử bằng trí của nhân loại và sẽ vẫn như thế trong một thời gian rất dài. Tuy nhiên, có các nguyên nhân và hiệu quả vốn có thể xảy đến thuộc loại định luật thiên nhiên này và tuy thế nó không quá xa sự kiềm chế của con người. Qua nhiều thời kỳ, con người đã làm phát sinh nhiều nguồn lực (energies), tất nhiên các lực này phải tạo ra các biến cố trên cõi trần, khơi dậy sự đáp ứng trên cõi tình cảm và dẫn tới các phản ứng trên cõi trí. Chính ở đây mà định luật thiên nhiên và định luật nghiệp quả gặp nhau và tương tác với nhau.

Ngày nay, có nhiều người tìm được duyên cớ cho chính họ trong tình huống thế giới hiện tại, và một sự giải thoát theo sau ra khỏi hành động và trách nhiệm rõ rệt đó, bằng cách nói rằng những gì đang xảy ra ngày nay chỉ là nghiệp quả hay là cách thể hiện thành chi tiết của nhân và quả, và cho rằng không có gì cả, do đó họ có thể làm về điều đó, họ chọn lập trường mà lập trường đó không phải là công việccủa họ, và rằng vào đúng lúc, tiến trình sẽ được thể hiện và mọi việc sẽ ổn thoả trở lại. Bấy giờ phiến đá sẽ được tẩy sạch và ngẫu nhiên họ sẽ không bị dính líu đến, mà sẽ an toàn đứng nhìn (cho dù là một cách không thuận tiện). Khi làm như thế tức là bỏ qua khía cạnh thứ ba của cùng định luật này, mà chúng ta đã gán cho danh xưng là tự do ý chí (free will). Chính cách sử dụng hợp lý tự do ý chí và biểu lộ bằng cảm thông của nó mà sau rốt đã giải quyết ổn thoả và điều chỉnh việc tác động của nghiệp quả và biến đổi những gì mà hiện giờ đang gây ra bao tác hại và tàn phá trên thế giới thành biểu hiện của tốt lành và của nền tảng thành công cho việc theo đuổi hạnh phúc chân chính. Do đó, những ai đang dửng dưng trước các khổ đau bi thảm của nhân loại và những ai không muốn dính líu vào, và như vậy thành công trong việc lẩn tránh trách nhiệm dưới hình thức một phần bất khả phân của gia đình nhân loại, thì rõ ràng là đang tích chứa cho chính họ nhiều nghiệp quả xấu. Bằng bất cứ giá nào họ cũng phải học cách tham dự, bởi vì tình huống hiện nay đang có trong nó các mầm giống giải thoát cho nhân loại khi bản chất của tà lực được hiểu rõ phần nào, và nhất là khi sự đơn nhất của nhân loại và các quyền hạn của con người được thực sự nhận biết. Những ai gây chiến chống lại nhân loại và những ai tìm cách cướp mất mục tiêu tự do mà Thượng Đế ban cho nhân loại, phải được đưa trở lại nơi phát xuất của họ. Những ai không chịu chia sớt trong cuộc tranh đấu cho tự do sẽ bị bỏ lại bên ngoài các lợi lộc của tự do, thậm chí nếu điều đó chỉ có ý nghĩa bên trong các giới hạn gia đình riêng của họ, trong các tập quán sinh hoạt của họ và trong các hoàn cảnh riêng của họ. Ở đây khi tôi nói đến câu “được đưa trở lại nơi mà họ đã xuất phát” ấy là tôi đang dùng cách diễn đạt theo cả nghĩa thường lẫn nghĩa huyền linh.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Do đó, chính tự do ý chí (free will) và ý chí hành thiện (will–to–good) của nhân loại phải chủ động kết thúc cuộc xung đột (conflict) hiện nay. Một trong hai yếu tố này, cái thứ nhất, liên quan đến trách nhiệm của con người đối với con người, còn yếu tố kia, khi được hiểu đúng, sẽ liên quan đến mối liên hệ đúng đắn của con người với thiên ý (divine purpose), tức là định hướng đúng của con người nhắm vào thiện chí thiêng liêng và sự tham dự chính xác của con người vào biểu hiện của nó. Nơi nào có các tình huống này, nơi đó có thể được thu hút đến một tác động can dự thiêng liêng.

Ngày nay, luật thiên nhiên đang tạo ra các thay đổi lớn lao trong thiên nhiên qua các hậu quả của cuộc chiến ở trênkhông và dưới đất, qua kết quả của hoạt động uyển chuyển của toàn thể các vùng chia cắt của con người trên thế giới và qua hiệu quả của các thay đổi và các tiến trình kinh tế rộng lớn. Các tình huống đã được phát động, bây giờ phải thể hiện mục tiêu được định trước của chúng, và đó là nhiệm vụ của những Đấng dẫn dắt nhân loại về mặt tâm linh để thấy rằng do cái xấu ác ở bên ngoài và do hoạt động vật chất, mà cái tốt lành có thể nảy sinh, và rằng do ý định xấu thiên về vật chất nằm đàng sau hoạt động xâm lược hiện tại của một số nhóm, mà cái tốt lành sau rốt mới có thể được vạch ra và hoạt động xấu xa mới kết thúc. Nhưng cái tốt lành có thể có được này sẽ trở thành kết quả của hoạt động tâm linh của những ai hiểu được thiên luật và những ai hiểu được mục tiêu của Thiên ý, cái tốt lành này sẽ được tiến hành mà không bị ngăn trở, chớ không phải vì bởi mãnh lực tàn bạo và các mục tiêu ích kỷ của những kẻ xâm lược trên thế giới, các điều này biểu hiện cho và đem sức sống cho các mãnh lực vật chất của hành tinh theo một cách thức biểu hiện hoàn toàn mới mẻ.

Tự do ý chí bao hàm một hiểu biết căn bản về các đường rạn nứt trên thế giới, nó liên quan đến việc chọn đúng và theo sau đó là hành động chính xác cho tập thể và được xác định mỗi lúc bằng những gì đúng đối với tổng thể và không được đúng lắm đối với từng phần. Hiện nay chỉ có nhân loại mới đạt đến trình độ mà tự do ý chí có thể có ý nghĩa quan trọng. Cho tới nay, chỉ có ít tự do ý chí. Rõ ràng đây là minh chứng cần có vào lúc này. Ngày nay chính việc thiếu tự do ý chí thực sự mới đang làm cản trở hoạt động cuối cùng. Đây là một phát biểu quan trọng và chính nơi đây mà những nước trung lập lớn và tự do có thể đưa ra một hướng dẫn đúng cho các sự việc của nhân loại. Tư tưởng thù địch, sự sợ hãi, kinh hoàng, linh tính thiếu lành mạnh và sự tê liệt không dứt và không đáng có xuất phát từ nỗi đau thể xác và tinh thần đang làm mất tác dụng và chối bỏ tự do ý chí trong nhiều phần chia cắt của thế giới vào lúc này. Không có tự do ý chí nào hết trong nhiều vùng ở Châu Âu ngày nay.

Thành kiến, cách giải thích lệch lạc các sự kiện được đưa ra chủ nghĩa lý tưởng quá cường điệu và giả dối, các hình tư tưởng thuộc chủng tộc hay thuộc quốc gia và nỗi sợ rời bỏ trách nhiệm đang ám ảnh việc biểu lộ tự do ý chí trong các vùng ít bị thiệt hại trên thế giới. Việc thiếu chuẩn bị về mặt luân lý và việc không thể từ bỏ nhiều giải thích sai lầm và khác nhau về chân lý hay về giáo lý của Đức Christ đang ám ảnh nhiều người ngày nay. Sự giải thoát cho nhân loại sẽ đến khi những người được gọi là tốt lành trên thế giới từ bỏ các lý thuyết ưa thích, các lý tưởng mến chuộng của họ và hiểu được sự kiện chính đại rằng việc tiến nhập vào Thiên giới và vào kỷ nguyên mới sẽ xảy ra khi nhân loại trở nên thực sự bác ái và biết xã thân phụng sự, và khi thiên ý đích thực được nhận ra và nhân loại trở thành một tổng thể duy nhất bất khả phân. Lúc đó, các chủ nghĩa dân tộc được ưa chuộng, các dị biệt tôn giáo và các chủ nghĩa lý tưởng ích kỷ (vì đó là những gì mà thông thường khi đa số con người đều là các lý tưởng gia bởi vì họ tìm cách cứu linh hồn riêng của họ) đều phụ thuộc vào nhu cầu con người, lợi ích của con người và hạnh phúc tương lai của toàn thể. Sự đơn giản hoá của thái độ con người là nhu cầu khẩn thiết hiện nay. Các ý thức hệ phải ra đi; các lý tưởng cũ phải được từ bỏ, các hệ thống xã hội, tôn giáo, chính trị yêu thích phải được vứt bỏ, và mục tiêu tác động duy nhất và quyết định nổi bật duy nhất phải là việc giải thoát nhân loại ra khỏi sự áp đặt của sợ hãi, ra khỏi tình trạng nô lệ ép buộc và sự phục hồi lại tự do cho con người và theo đúng cơ hội để tự biểu hiện qua các mối liên hệ đúng đắn của con người. Cho đến nay, điều này không thể xảy ra và đó là tình trạng tồi tệ của khủng bố của nô lệ và của luật lệ được áp đặt và trừng phạt hiện đang làm đau lòng nhân loại và gây nên sầu muộn sâu xa và gây nghi ngại cho những ai mà quả tim chưa bị tổn thương như thế.

Về phần nghiệp quả, những gì con người đã tạo ra, thì con người cũng có thể thay đổi. Điều này thường bị bỏ quên. Karma không phải là một định luật cứng nhắc (hard) và chặt chẽ (fast). Karma có thể thay đổi được, tuỳ theo thái độ và ước muốn của con người. Karma là cơ hội được đưa ra để thay đổi, Karma nảy sinh từ các hoạt động trong quá khứ, và các hoạt động này khi được đáp ứng một cách đúng đắn và được vận dụng chính xác, sẽ đặt nền móng cho hạnh phúc và tiến bộ tương lai. Tình huống hiện nay là lỗi lầm của mọi người trong mọi quốc gia (đặc biệt là người thông minh hơn) và cũng bao gồm những nước trung lập lớn nếu Định Luật Tái Sinh và Định Luật cùng chung trách nhiệm (joint responsibility) không mang một chút ý nghĩa nào. Nghiệp quả không phải là tất cả những gì xấu xa và ác độc. Con người làm cho nó thành như thế do các dại dột của họ. Ngày nay, có các tà lực lớn lao đang tìm cách biểu hiện trên thế giới, các tà lực này đang vượt ra khỏi quá khứ và tìm cách định đoạt và mang lại một tương lai rất tệ hại mà trong đó lòng ích kỷ, các mục tiêu vật chất, cái tốt lành và phúc lợi của một giống dân, trong số nhiều giống dân phải được đặt ra cho thế giới – một thế giới đang phản kháng một cách tự nhiên chống lại sự áp đặt và bóp méo sự thật như thế. Mãnh lực của gương xấu hiện ra trong việc hai chủng tộc khác nhau đang tìm cách bắt chước hay trợ giúp các sức mạnh xâm lược, mà hiện nay đang tập trung qua chủng tộc xâm lược.

Trong lúc đó, các mãnh lực tốt lành đang tìm cách làm cân bằng gánh nặng của động cơ ích kỷ về vật chất và hiện nay đang ở bước đường cùng với vấn đề còn chưa được giải quyết – ngoại trừ trên cõi trí. Khi những người không bị dính líu nhiều như thế trong cuộc xung đột hiện tại, thì họ liền từ bỏ tính ích kỷ của họ, từ bỏ các thành kiến cùng các giải thích của họ và thấy được nhị nguyên căn bản của cuộc xung đột này dưới ánh sáng đích thực của nó, họ sẽ phóng ra sức mạnh với ảnh hưởng ngày càng tăng của họ về phía thiện chí và các liên hệ đúng đắn của con người, bấy giờ nghiệp quả xấu mà họ chấp nhận theo bề ngoài một cách điềm tĩnh dành cho những người khác và không dành cho chính họ, sẽ được đổi thành nghiệp quả tốt vốn là vận mệnh đích thực của nhân loại và sẽ báo trước trong kỷ nguyên mới với nỗi hân hoan, hoà bình và tổng hợp tinh thần – sự tổng hợp mà chúng ta gọi là tình huynh đệ.

Chính vì có sự trì hoãn trong sự hiểu biết đúng và sự chậm chạp của nhiều người khi đánh giá tình huống đích thực, mà các Đấng Cao Cả đang dẫn dắt nhân loại và làm việc trên khía cạnh tâm linh của sự sống, đã không thể làm nhiều điều cập nhật trừ việc về mặt tinh thần, làm cho mạnh thêm bàn tay của người hành đạo bằng Sức Mạnh của Diệu Quang (Forces of Light). Đức tin của nhiều người đã giữ cho cánh cửa hé mở, tuy nhiên ngay cả những người này thường quên rằng “đức tin không có hành động là đức tin chết” (“faith without works is dead”). Chỉ khi nào đức tin đó tìm được biểu hiện linh hoạt trên cõi trần bằng sự hợp tác và hy sinh đúng đắn (cho dù đưa đến tử vong) thì cánh cửa có thể bắt buộc mở rộng và sự can thiệp thiêng liêng mới có thể xảy đến. Chỉ khi nào tầm nhìn và mơ ước yên bình – đang đánh lừa rất nhiều người có hảo ý – nhường chổ cho cách định đoạt để chọn phương tiện có thể có hầu đạt được sự yên bình đó theo các đường lối thực tiễn trên cõi trần, thì các mãnh lực tâm linh bên trong mới được phép hành động một cách linh hoạt hơn cũng ở trên cỏi trần.

Điều khá kỳ lạ, là ngày nay, các mãnh lực đó thường bị ngăn trở bởi những người theo chủ nghĩa lý tưởng, họ yêu lý tưởng của họ nhiều hơn là yêu thương nhân loại và họ bấu víu vào các giải thích đặc biệt của họ về những gì mà họ nghĩ là Đức Christ nhắm vào, đồng thời loại trừ tình thương thật sự vốn đặc trưng cho mọi hành động của Ngài và vốn sẽ lèo lái họ vào việc phụng sự tích cực, vị tha cho Quyền Lực của Diệu Quang. Họ không làm gì để đưa sự xung đột đến chỗ kết thúc bởi vì họ bận tâm với các giấc mơ, các lý tưởng và các giải thích của riêng họ; khi họ có thể để cho những sự việc này hoạt động vì tình thương nhân loại, bấy giờ tầm nhìn mới mẻ sẽ đến và thế giới sẽ được cứu độ; Quyền Lực của Diệu Quang sẽ biểu lộ mạnh mẽ và các mãnh lực gây hấn sẽ đi đến chỗ thất bại.

Do đó, khi xét đến việc pha trộn cuối cùng của tầm nhìn xa và hoạt động ở cõi trần (nhu cầu chính vào lúc này) triển vọng có sự can thiệp thiêng liêng sẽ xảy ra dưới hình thức nào? Tôi không muốn tiên đoán. Tất cả những gì mà tôi tìm cách nêu ra là việc ngăn chận hoặc cản trở xảy ra ngày nay đều thuộc về phía nhân loại. Nó không nằm về phía các mãnh lực của ánh sáng, sự sống và tình thương; nó không thuộc về phía Đức Christ và các môn đồ của Ngài hoặc của các Chân Sư Minh Triết, vì các vị này (dưới các danh xưng khác nhau) tạo thành Huyền giai tinh thần của hành tinh. Gọi các Ngài bằng danh xưng nào tuỳ bạn chọn, niềm tin ưa chuộng nhất của nhân loại là những gì hiện hữu trên thế gian thì luôn luôn và mãi mãi là Thực Tại Siêu Việt (Reality) còn ẩn giấu, các Vị này đã chinh phục được sự chết, các Ngài có được năng lực vô giới hạn để giúp đời và các Ngài có thể được đạt đến bằng sự khấn nguyện và thỉnh nguyện.

Đó là mãnh lực và các khả năng hiểu biết các sự việc vật chất và sự thật về điểm tập trung toàn diện trên cõi trần đã mang lại cho các mãnh lực xâm lược rất nhiều thành công cho đến nay. Thông qua chính sức mạnh của chúng, các mãnh lực này đã pha trộn và phối hợp chung với nhau thành nhóm bảy người, họ hình tượng hoá trong chính họ các trạng thái lớn lao và đặc biệt của các mãnh lực vật chất (liên kết với bảy loại năng lượng dưới các biểu hiện thấp nhất và thiên về vật chất nhất của chúng) và các biểu lộ của chúng – chiến tranh, sợ hãi và tàn bạo. Chúng được kết hợp bằng một quan điểm và bằng mục tiêu duy nhất và đó là sự thành công của họ. (Lần nữa trong trường hợp của họ, thật là lý thú mà thấy hiển nhiên xuất hiện một Thất bộ mở đầu – sự trùng hợp căn bản và huyền bí của Thất bộ mở đầu đang đưa con người vào ánh sáng và đang được tượng trưng trong bảy Hội viên Tam Điểm tạo thành một Chi Bộ Tam Điểm [Lodge of Masons]). Các Ngài là những Vị trông coi mãnh lực đang chi phối họ và qua các mãnh lực này, chính họ không có sự chi phối nhỏ nhất nào. Bạn hỏi bảy người này là ai, đó là: Hitler, Von Ribbentrop, Goebbels, Goering, Hess, Himmler và Streicher – những tên mà các bạn đều biết rõ. Những người này tượng trưng cho và hiện thân của các mãnh lực có tính chất xâm lược và cai trị bằng sự sợ hãi không những chỉ các quốc gia bị bắt làm nô lệ mà còn các nước đồng minh ít oi của họ nữa, các đồng minh này chẳng có cùng một chút quyền lực nào cả – quả là không may cho họ.

Khi những người ở về phía Các Quyền Lực của Diệu Quang và không có tư tưởng thù địch, thì họ có thể thấy mục tiêu của họ một cách rõ ràng và hoàn toàn hợp nhất với mục tiêu chấm dứt sự áp bức và tình trạng nô lệ để giải thoát cho nhân loại, bấy giờ chúng ta sẽ thấy cùng một biểu hiện của sức mạnh tâm linh vốn sẽ mang tai hoạ tới cho bảy cường lực này. Sự hợp nhất về mục tiêu và về đích nhắm như thế có thể xảy ra và cần thiết; và khi điều đó xảy ra, mãnh lực được tạo ra và năng lực để giải thoát khỏi cõi trần sẽ có bản chất kỳ diệu đến nỗi sự giải phóng nhân loại sẽ nhanh chóng xảy ra.

Tôi đã hoạt động cho việc này và tôi đã tìm cách giúp cho tất cả các bạn thức tỉnh. Tinh thần này đang tăng trưởng trong các lực lượng đồng minh, mặc dù việc bỏ rơi nước Pháp là điều không tránh khỏi. Nước Pháp được làm cho sinh động bằng những mục đích có phần ích kỷ – sự an ninh và an toàn của nước Pháp quan trọng hơn so với sự tình trạng toàn vẹn và hạnh phúc của nhân loại, và điều này dẫn đến sự sụp đổ tất nhiên; tuy nhiên nước Pháp đang học hỏi, khối quần chúng không thể lay chuyển của nước này và hạt nhân tinh thần của nó sẽ cứu được ngày mà quốc gia nứt rạn. Các cường quốc trung lập vẫn còn ích kỷ (mặc dù họ tìm cách che đậy điều đó bằng lòng nhân từ), nhưng họ đang nhanh chóng thức tỉnh trước các vấn đề đích thực, và khi có sự tổng hợp thực sự về mục tiêu và về mục đích, và có sự thống nhất thực sự về tầm nhìn xa trên cõi trí, về dục vọng cố định và không thể thay đổi trên cõi tình cảm và việc cống hiến cho nỗ lực thực tiễn trên cõi trần, bây giờ mới có hy vọng rằng hiện thân của “tham vọng của mọi quốc gia” sẽ xuất hiện.

Hiện thân đó là cách thức duy nhất trong đó sự can thiệp thiêng liêng có thể xảy ra. Vị Chúa Tễ Hoà Bình sẽ dẫn dắt con dân của Ngài – vượt qua chiến tranh – tiến đến hoà bình. Những ai chỉ suy tưởng bằng các thuật ngữ hoà bình theo như họ hiểu và mong muốn hoà bình, đều có khuynh hướng quên hàm ý của Thánh Kinh, vị Chúa Tễ Hoà Bình đang chiếm một phần rõ rệt trong trận chiến của Armageddon (hiện đang ở mức tiến hoá đầy đủ). Sau khi đạt được chiến thắng, bấy giờ Ngài sẽ hướng dẫn nhóm chiến thắng của Ngài xuyên qua cổng đi vào “Jerusalem”, thành phố hoà bình. Ý nghĩa tượng trưng và thực tiễn của điều này đang trở nên ngày càng rõ rệt. Biến cố đáng để ý này có thể và sẽ xảy ra khi tự do ý chí của người dân, được phối hợp bằng khấn nguyện và thỉnh nguyện, có thể làm cho điều này có thể xảy ra.

Sự can thiệp thiêng liêng cũng có thể khoác lấy hình thức của một biến cố do tai hoạ lớn vốn sẽ đưa sự gây hấn đến chỗ kết thúc do sự huỷ diệt. Có thể với cái giá của sự sống con người như thế mà có sự do dự rõ rệt trong việc sử dụng nó bởi những Đấng bảo quản luật thiên nhiên và những kẻ phụng sự hiểu được thiên–ý, tách rời khỏi sự kiện rằng bây giờ nhân loại hiện đã đạt đến trình độ tiến hoá mà biểu hiện tự do ý chí con người dứt khoát có thể xảy ra. Việc sử dụng thảm hoạ là phương pháp được dùng trong thời Atlantis, như bạn biết rõ theo truyền thuyết về trận đại hồng thuỷ, và do trận hồng thuỷ đó mà nền văn minh thời đó hầu như bị huỷ diệt. Hy vọng rằng giai đoạn thảm thương như thế, ngày nay sẽ không cần đến nữa, mặc dù có những nhà tiên tri cổ xưa từng tiên đoán có thể có sự huỷ diệt của thế giới này vào lúc này bằng lửa – thay vì lụt. Phương pháp nào trong hai phương pháp – hiện thân thiêng liêng và tai hoạ tự nhiên – được dùng tới sẽ thực sự được nhân loại định đoạt do việc sử dụng hay không sử dụng tự do ý chí và hiểu biết. Nếu nhân loại không đoàn kết được để ủng hộ Quyền Lực Diệu Quang chống lại sức mạnh của tư tưởng thù địch thiên về vật chất và sự ích kỷ, thì bấy giờ “cuộc thử lửa” (“fiery ordeal”) có thể không tránh khỏi.

Cũng có vô số người chưa thức tỉnh cần được đánh thức để trợ giúp cho các mãnh lực tâm linh, và một số các nhà tiên tri cổ xưa có nói bóng gió đến điều này, nhưng khi chúng ta nghiên cứu bài khấn nguyện mới từng câu một thì tôi có thể làm cho vấn đề này sáng tỏ hơn, vì có một số ý nghĩa và ẩn ý nằm sau mỗi câu. Có một điều mà tôi tìm cách làm sáng tỏ trong các nhận xét mở đầu này đó là định luật về thiên nhiên, tự do ý chí và nghiệp quả đang trở nên ngày càng có liên hệ, tất cả đều là các khía cạnh của định luật vĩ đại duy nhất, đang biểu hiện cho thiên ý (divine purpose) – một thiên ý vốn phải thể hiện qua trung gian của chính nhân loại nếu cơ hội hiện nay được đáp ứng một cách chính xác và phù hợp với thiên ý đó.

Kích hoạt một số người để họ có hành động phi thường và thúc đẩy những người khác để họ xuất lộ như là những nhà lãnh đạo năng động và có nhiều sáng tạo, cũng là một đường lối khác mà cách can dự thiêng liêng có thể tạo ra. Thường thường, qua các thời kỳ, con người đã được thiên tính phù trợ (overshadowed by divinity) và được Thượng Đế truyền hứng cảm để có được khả năng lãnh đạo thiết thực và như thế giúp cho thiên ý trở thành hiện thực trong các sự việc đang chi phối thế giới. Nếu họ không đáp ứng với ấn tượng đang tạo ảnh hưởng và nếu họ không chấp nhận trách nhiệm được đặt vào họ, thì diễn tiến của các sự việc trên thế giới và các biến cố trên thế giới có thể trở nên khác đi. Ở đây tôi không đặc biệt đề cập đến các nhà lãnh đạo tinh thần mà cũng không nói đến các nhà lãnh đạo trong các lãnh vực sinh hoạt khác của nhân loại – dành cho các hiển lộ của ý chí thiêng liêng như là Moses, Lawgiver, Akbar, chiến sĩ và đạo sinh, Leonardo da Vinci, nhà nghệ sĩ được tạo hứng cảm,và cho các gương mặt lớn và nổi bật khác đã định đoạt các khuynh hướng cơ bản của nền văn minh con người; tôi cũng đề cập đến các mãnh lực kiến tạo đã hướng dẫn nhân loại vào ánh sáng tri thức và cảm thông ngày càng tăng. Tất cả các nhà lãnh đạo này đã tạo ra các hiệu quả kéo dài trên ý thức nhân loại và do đó công việc của họ đã nằm trong lãnh vực ngôi hai của thiên tính. Hoạt động của họ diễn ra song song với các hoạt động của các nhà hoạt động, vốn đang được hay đã được tạo cảm hứng bằng vật chất hay khía cạnh biểu lộ của vật chất mà ảnh hưởng của họ đã chiếm ưu thế trên cõi trần, còn kết quả của họ lại theo các đường lối cá nhân ích kỷ một cách rõ rệt. Loại ảnh hưởng này được nhận thấy là chiếm ưu thế trên cõi trần, và do đó, theo một vài quan điểm, cuộc xung đột hiện tại có thể được xem như là cuộc xung đột giữa trạng thái hai, ý thức tinh thần đã phát triển, và khía cạnh biểu lộ của vật chất, cùng với nhân loại đang tạo thành môi trường xung đột thiêng liêng lớn lao vào lúc này.

Do đó, chúng ta ám chỉ đến các hình thức can thiệp thiêng liêng như sau :

  1. Các biểu hiện thiêng liêng (divine embodiments).
  2. Các tai ương thiên nhiên (natural cataclysms).
  3. Thỉnh nguyện về các Thực Thể Thông Linh chưa hoạt động.
  1. Đưa ra nhà lãnh đạo có linh hứng.

Vẫn còn một cách can thiệp còn huyền bí hơn nữa, mạnh mẽ hơn rất nhiều và rõ ràng là khó khăn hơn cả hai cách trên khi thỉnh nguyện và kế đó khi giao tiếp. Đây là sự xuất lộ, đáp ứng hay xuất hiện các Con vĩ đại của Thượng Đế, các Ngài từ các cội nguồn quá xa cách với toàn bộ sự sống hành tinh của chúng ta; điều này bao hàm việc xuất hiện các Đấng Cao Cả có biểu hiện thiêng liêng kỳ diệu và có mãnh lực mà chỉ có mục tiêu thiêng liêng có tập trung của một số lớn người mới có thể đủ mạnh và đủ ảnh hưởng để xuyên qua bên kia bức màn đang che chở Địa Cầu, đến các lãnh vực xa xăm nơi mà các Ngài có trú sở tự nhiên và vĩnh cửu của các Ngài. Các Ngài không thể được đạt đến bằng khấn nguyện hay thậm chí bằng sự mong muốn được vạch ra rõ ràng – biểu hiện của sự sống mơ ước của quần chúng. Các Ngài hoàn toàn nằm ngoài lãnh vục cảm nhận (theo như nhân loại hiểu) và bao giờ cũng ngự trong chốn cao thâm chỉ có thể đạt đến bằng tư tưởng vị tha, có định hướng một cách chủ ý.

Ngày nay, trên thế giới có đủ số người có được tư tưởng tập trung và giác ngộ có thể được tổ chức và hướng đến các Đấng Cao Cả này theo một cách thức sao cho các Ngài có thể được thu hút và dẫn tới việc đáp ứng với nhu cầu nhân loại cho việc giải thoát hay không? Vấn đề nằm ở chỗ đó. Có thể có, nhưng có thể không. Vấn đề thỉnh nguyện có phối hợp từ phía Đại Đoàn tâm linh và từ phía nhân loại – được biểu hiện cùng lúc – sẽ phải được đáp ứng, và điều này chẳng dễ hoàn thành chút nào cả.

Chính vì lý do này mà ba đoạn kinh nói trên đã được đưa ra từ một khấn nguyện rất xưa cũ, và giờ đây được đặt vào tay bạn. Nếu bạn có thể dùng các câu này như là các thỉnh nguyện được bày tỏ và các niềm tin được xác quyết – kết hợp với các mãnh lực tinh thần cao siêu nhất vốn đòi hỏi sự trung thành của bạn, dù là dưới danh xưng gì – bấy giờ chỉ có một cơ hội là loại hoạt động thiêng liêng này có thể được khởi động theo một đường lối đặc biệt, và điều này có thể đưa đến các thay đổi có bản chất thuận lợi đến nỗi một chân trời mới và vùng đất mới có thể được mở ra một cách nhanh chóng. Ít nhất không có gì tác hại trong cố gắng này và nỗ lực này lúc tham dự vào nỗ lực của Thánh Đoàn. Sự hợp tác được sắp xếp với công việc của Đức Christ vào lúc này thật hữu ích và cần thiết; ít nhất việc đó sẽ dùng để nâng cao nhân loại cùng tư tưởng của nhân loại và tạo ra sự ổn định tâm linh thường xuyên. Các tiềm lực vĩ đại và biểu hiện của tà lực xưa cũ từ quá khứ đang lan tràn trên cõi trần vào lúc này, được phóng rải qua sự ích kỷ khác thường của con người, sự độc ác và sai lầm, và được tập trung qua trung gian của một giống dân kém may mắn và sức mạnh của một số người nguy hiểm – những người dễ dàng phụ thuộc vào ấn tượng xấu và chịu ảnh hưởng cùng bị ám ảnh bởi lòng ích kỷ xấu xa – bởi các mãnh lực hủy diệt. Vào lúc này có thể kêu gọi điều thiện vĩnh cửu, tiềm tàng trong các Đấng Cao Cả muốn bình thường giao tiếp với con người trong một tương lai xa xăm và như vậy có thúc đẩy được thời điểm giao tiếp tâm linh cao diệu và sâu xa hơn trong hiện tại trước mắt hay không? Đó là vấn đề. Nếu có thể làm được điều này, thì quá khứ xấu xa và tương lai huy hoàng có thể được đưa vào giao tiếp trong hiện tại kém may mắn, và một biến cố xảy ra sẽ tạo ra các thay đổi kỳ diệu.

Ở đây, tôi xin nhắc nhở bạn rằng thỉnh nguyện về sự tiếp xúc thiêng liêng này tự nó sẽ trở nên nguy hiểm, gây rối loạn và đưa tới hủy diệt. Các kết quả đều không thể tiên đoán được với con người, vì cho đến nay, con người đều không quen đáp ứng với các Đấng Cao Thâm (Lives) và các Tác Động (Influences) có bản chất rất cao siêu và rất thiêng liêng. Tuy nhiên, có thể rằng điều đó giờ đây có thể trở nên an toàn hơn nếu có đủ số người có thể đứng chung với nhau về mặt tinh thần và biết quên mình, và như thế tự dâng hiến chính mình thành các vận hà cho các Thần Lực tâm linh mới mẻ và chưa được nhận biết này. Có các thuộc tính (attributes) thiêng liêng, các tính chất (qualities) thiêng liêng và các tiềm năng (potencies) thiêng liêng mà cho đến nay, số người giác ngộ nhất thuộc mọi thời đều thậm chí không ghi nhận, cảm thấy hoặc hình dung ra được – tất cả ba trạng thái này đều đang vượt ngoài sự tiếp xúc với các tiềm lực này. Tuy nhiên, các quyền năng này vẫn hiện hữu và việc xử lý đúng cuộc khủng hoảng hiện tại của nhân loại (được định hướng về mặt tâmlinh), có thể đưa tới việc phóng rải một số năng lượng cao siêu này và tạo nên một con đường, tác động cụ thể mà theo đó các Ngài có thể hoạt động và tất nhiên tiếp xúc với Địa Cầu. Hãy suy gẫm điều này và đừng giới hạn Thượng Đế (Deity) bằng sự cứng nhắc và sự hữu hạn của các thể trí nhỏ bé.

Việc phóng rải các mãnh lực khách quan vĩ đại bao giờ cũng là vấn đề có tính chất quyết định. Các hậu quả tạo ra đều tùy thuộc vào tính chất của các trạng thái của người lãnh nhận và bản chất của tính chất hình hài (nature of the form quality) mà theo đó các mãnh lực này tạo ra ảnh hưởng của chúng. Trong lĩnh vực hóa học, một chất xúc tác (a catalyst) khi được đưa vào tiếp xúc với một số chất, sẽ tạo ra một cái gì đó hoàn toàn mới và mang lại các thay đổi không được báo trước một cách bình thường. Hiện giờ chúng ta đang bắt đầu nghiên cứu và tìm hiểu các thay đổi này. Việc can dự vào tình huống của một vài mãnh lực có tầm quan trọng kỳ diệu và độc nhất vô nhị, hiệu quả của chúng trên các Huyền Lực tương tác của Diệu Quang và các Mãnh lực của tư tưởng thù địch còn khó tiên đoán hơn nhiều, và chỉ có thể hiểu được đối với người có trí tuệ thiên về tâm linh trên thế giới và sự kiên định của họ trong công việc hy sinh – cộng với tầm nhìn sáng suốt của họ và tụ điểm hợp nhất trên thế giới – có thể làm cho tình hình trở nên an toàn cho nhân loại nói chung. Hãy ghi nhớ các ý tưởng này khi bạn sử dụng bài Đại Khấn Nguyện mới.

Một ý tưởng khác mà tôi muốn đề cập đến trước khi phân tích các câu của bài Khấn Nguyện.

Ngày nay, người ta nhận biết được một sự thật rằng mọi biểu lộ (expression) trên cõi trần, trước tiên là kết quả của tư tưởng, kế đó của ham muốn và sau rốt của hoạt động trên cõi trần. Một người thấy một linh ảnh nào đó và một khả năng có thể làm được. Người ấy nghiềm ngẫm về điều đó và lúc đó nó đi vào lãnh vực sáng tạo của thể trí. Bấy giờ một hình tư tưởng được tạo ra, cho dù đó là hình tư tưởng của một máy may, của một đảng chính trị, của một ý tưởng kinh tế, hay một loại cơ cấu nào khác, với một mục tiêu được hoạch định nào đó. Nhiều suy tư và nghiềm ngẫm sau rốt sẽ tạo ra một từ trường, từ trường này sẽ trở nên mạnh đến nỗi ham muốn sẽ đi vào; bấy giờ điều mơ tưởng (dream) hay linh ảnh (vision) đi vào một giai đoạn mới, giai đoạn được tiếp sinh khí (vitalisation). Vào đúng lúc, khi các tiến trình ham muốn đã phát triển một cách tương xứng, linh ảnh sẽ hiện ra (precipitate) trên cõi trần. Hoạt động ở cõi trần và các phương pháp biểu lộ cụ thể bấy giờ được phối kết và dần dần hình tư tưởng trở thành một thực tại được biểu hiện, có thể được mọi người nhận biết.

Tư tưởng, ước muốn, hoạt động – đó là lịch sử của linh ảnh và mơ tưởng của con người. Qua các thời đại, từ chính đêm tối của thời gian, con người đã mơ tưởng, mong đợi sự khai mở thiêng liêng và sự can thiệp thiêng liêng. Khi mọi điều khác dường như thất bại, con người trông cậy vào Thượng Đế. Nhiều lần trong lịch sử nhân loại, linh ảnh được hình thành và điều mơ tưởng đã xuất hiện dựa vào đôi cánh của ước muốn và nguyện vọng mãnh liệt. Nhiều lần, Thượng Đế đã hé lộ và gởi các Sứ Giả và các vị Đại Diện của Ngài đến giúp đỡ và dẫn dắt nhân loại. Nhưng điều này chỉ xảy ra khi nguyện vọng được bày tỏ một cách thích hợp và lời thỉnh nguyện đã vang lên đến trời cao. Tuy nhiên sự đáp ứng bao giờ cũng đến. Gần đây, đã nhiều lần các nước trên thế giới đã kêu gọi đến sự thỉnh nguyện và tiếng cầu xin của hàng triệu người đã được để ý đến. Câu trả lời sắp được đưa ra, mặc dù câu trả lời đó không thể có cùng hình thức như xưa, bởi vì, ngày nay, con người – bất chấp các vẻ bên ngoài – đều có khả năng hơn để giải quyết các sự việc của riêng mình và định đoạt một cách sáng suốt các biến cố của riêng mình. Cho dù thiếu thực tế ra sao đi nữa, ở đằng sau của tất cả các cầu xin và thỉnh nguyện này trong nhiều nước theo Cơ Đốc giáo đều có ẩn tàng một sự xác tín tế nhị, bắt rễ sâu xa rằng việc tái lâm của Đức Christ sắp xảy ra; có sự chấp nhận rộng rải cái ý niệm cho rằng Sự Hiện Hữu (Presence) của Ngôi Hai Thượng Đế có thể được thỉnh nguyện và rằng Ngài phải đến trợ giúp cho con dân của Ngài. Dù cách giải thích có tính giáo điều hay là chủ nghĩa lý tưởng thần học, thì một số hình thức của niềm tin tưởng này cũng nằm đàng sau tiếng kêu cầu của hàng triệu người.

Thỉnh nguyện từ trái tim con người này sẽ đưa tới sự tái lâm của Đức Christ ở Galilee chăng? Nó có mang lại sự xuất lộ của một Đấng Con vĩ đại nào đó của Thượng Đế, tức là Đấng có lẽ sẽ tiêu biểu cho khía cạnh khác chưa được biết về sự sống và phẩm tính của Thượng Đế hay không? Có thể nó sẽ tạo ra biểu hiện của một khai mở thiêng liêng khác, và – giống như Đức Phật biểu hiện cho Minh Triết của Thượng Đế, còn Đức Christ khai mở cho chúng ta Tình Thương của Thượng Đế – phải chăng Ngài có thể đến để khai mở cho chúng ta bản chất của Thiên Y (the Will or Purpose of God), như vậy cho thấy rằng ý–chí–hành–thiện phải được đưa vào hoạt động nếu ý muốn quyền lực sai trái (evil will–to–power) được xua ra khỏi Địa cầu. Tôi trình bày sự khả hữu này để bạn chú ý và muốn đòi hỏi bạn suy tư về điều đó. Như vậy, nếu điều này có thể chứng minh kết quả chính xác của mọi khấn nguyện và thỉnh nguyện, thì chúng ta sẽ có sự quân bình của ý chí phàm ngã, của tính ích kỷ thuộc về vật chất và tính hám lợi, còn ý chí vị tha đang tìm cách giúp đỡ toàn thể nhân loại. Ý chí của phàm ngã và ý chí của Chân Ngã hay Linh Hồn sẽ trở nên xung khắc với nhau, khi nhân loại đang phóng sức mạnh về ảnh hưởng của mình lên mặt này hay mặt khác.

Khi tôi nói đến việc phóng sức mạnh của ảnh hưởng nhân loại vào mặt này hay mặt khác, là tôi đề cập không những đến sức mạnh tư tưởng và đến những gì mà rất nhiều người gọi một cách bóng gió là “hoạt động trên các phân cảnh trí tuệ”. Tôi đề cập đến hoạt động hữu thức của toàn thể con người đang hoạt động bằng thể trí, thể tình cảm và đa số bằng thể xác. Do đó, chỉ những ai có phàm ngã hội nhập mới có thể hoạt động theo cách này, và cũng có khó khăn trong đó. Ngày nay những ai hoạt động chỉ bằng thể trí hay những ai ngồi yên và gởi các tư tưởng bác ái vào thế giới, và những ai đắm mình như thế trong cái đẹp của chủ nghĩa lý tưởng riêng của họ (thường thường không tạo được cố gắng quân bình về mặt vật chất một cách thích hợp để đưa tình huống tệ hại hiện nay đến chỗ kết thúc qua việc chọn lựa đúng, hy sinh và phụng sự bền bĩ), thực ra không có một chút phụng sự nào cho bất cứ ai ngoại trừ chính họ. Có những kẻ đưa các tư tưởng bác ái đến nhóm người xấu đang chịu trách nhiệm cho tai họa trên thế giới, tin tưởng rằng nhờ đó mà thuyết phục được họ làm điều lành. Tôi muốn nhắc nhở những người đó rằng về thực chất, tình thương là một sức mạnh hay năng lượng khách quan (impersonal), vì hiệu quả của nó tùy thuộc vào loại hình thức mà nó giao tiếp và tùy thuộc vào những gì mà nó đang tác động tới. Do đó, khi tuôn đổ vào bản chất vật chất ích kỷ, tình thương sẽ chỉ làm tăng thêm dục vọng và thúc đẩy tư tưởng thù địch hám lợi ngày càng nhiều và như thế nuôi dưỡng bản chất thấp kém và làm lệch lạc biểu hiện đích thực của tình thương, đưa đến hoạt động xấu xa ngày càng nhiều. Khi tuôn đổ lên người vị tha, người trong sạch và người không vụ lợi, nó sẽ nuôi dưỡng tính chân thực và tình thương chân chính. Đây là các điểm cần ghi nhớ vào lúc này của người phụng sự có thiện chí nhưng không hiểu biết về mặt huyền linh.

Bây giờ chúng ta tiếp tục phân tích ba đoản khúc. Đoạn thứ nhất đề cập đến nhóm các Thực Thể Thông Linh đang chăm chỉ chờ đợi, các Ngài tìm cách giúp đỡ khi thỉnh nguyện đúng trùng khớp với đúng thời điểm. Đoạn thứ hai đề cập đến nhân loại cùng các phản ứng của nhân loại và đề cập đến việc có thể có sự tương tác giữa hai nhóm – các thực thể Thông Linh (Spiritual Lives) và con người. Đoạn thứ ba chỉ ra các phương pháp và các kết quả. Chúng ta sẽ chọn mỗi câu hoặc ý tưởng được diễn tả riêng biệt, vì mỗi câu mang ý nghĩa riêng của nó, và tất cả các câu đều có nhiều ý nghĩa. Tôi không thể bàn đến tất cả các ý nghĩa, mà sẽ trình bày ý nghĩa đơn giản nhất và quan trọng nhất.

Khấn xin Tinh Quân Giải Thoát (Lord of Liberation) giáng trần,

Mang đến cứu độ cho vô vàn con dân.

Các Tinh Quân Giải Thoát là ai và các Ngài đã từ đâu đến? Tất cả các ý tưởng và quan niệm đang chi phối sự sống của con người và đã tạo ra nền văn minh của chúng ta đều đã bắt nguồn từ một vài Đấng Cao Cả (great Lives) chính các Ngài là một biểu hiện của Thiên Ý (divine Idea). Âm điệu (note) mà các Ngài gióng lên và tính chất mà các Ngài phóng phát đang vươn tới và đang tạo ra ảnh hưởng lên trên kẻ tiến hóa nhất trong số con của nhân loại ở vào bất cứ thời điểm đặc biệt nào trên Địa cầu. Lúc bấy giờ những người này tiếp tục đưa ra ý tưởng được cảm nhận của riêng họ và tiếp tục làm cho các nhà tư tưởng của thời họ trở nên quen với ý niệm đã được đưa ra. Bằng cách này mà các mục tiêu thiêng liêng, vĩ đại đang thôi thúc sẽ trở thành các yếu tố điều khiển trong sự tiến bộ của con người. Chính bằng cách này mà sự thôi thúc căn bản đưa tới giải thoát và đưa tới tự do đã một cách từ từ và một cách bền bĩ chi phối nỗ lực của con người, trước tiên dẫn đến sự tranh đấu cho tự do và giải phóng cá nhân (với lý tưởng có thể có về cõi trời, về điểm đạo và về thành quả tâm linh), và dần dần uốn nắn tư tưởng con người đến một mức độ mà lý tưởng vĩ đại hơn có thể hình thành. Sự tự do của nhân loại và việc giải thoát bằng khả năng của nhân loại phải được tự định đoạt (vốn là một khía cạnh của tự do) đã trở nên lý tưởng thân thiết nhất và ý tưởng tốt đẹp nhất của các tư tưởng gia trong mọi quốc gia. Sau rốt, chính sự can dự này vào tự do của cá nhân và của tập thể vốn là tội lỗi tệ hại nhất của những kẻ sai trái, mà vào lúc này, đang tìm cách bắt các quốc gia nhược tiểu làm nô lệ và bắt họ phải tuân theo luật lệ của nước Đức, tước đoạt của họ các tài sản quốc gia và phương tiện sinh sống của họ, giật ra khỏi họ – bằng sức mạnh và sự sợ hãi – các tài sản yêu thích nhất của họ tức là tự do của đời sống và lương tâm.

Do đó, mọi ý tưởng to tát đều xuất phát từ các Nguồn Sống (Sources of life), và trong bài khấn nguyện cổ xưa mà chúng ta đang nói đến này, các Nguồn Sống đó được gọi là “Các Tinh Quân Giải Thoát” (“Lords of Liberation”). Có ba Vị cả thảy và một trong các Vị này thì gần gũi với Cõi Trần và với nhân loại hơn là hai vị kia, và chính Ngài là Đấng có thể được đạt đến bởi những ai hiểu được bản chất của tự do và những ai mong muốn dẹp bỏ chuyện đời để được giải thoát và thấy tất cả những người bị áp bức và bị làm nô lệ trên thế giới cũng được giải thoát.

Mọi hành động với một ý thức giác ngộ (đó là ý thức của Tinh Quân Giải Thoát) hướng về nhân loại đều đang tạo ra một sự chuyển dịch tương ứng hay hành động tương ứng về phía nhân loại. Điều này tự nó tạo ra một vấn đề rõ rệt, bởi vì không có hành động nào như thế có thể được một Tinh Quân Giải Thoát tạo ra, trừ phi nhân loại sẵn sàng nâng cao lý tưởng tự do của mình đến một mức độ biểu hiện cao siêu hơn. Trừ phi cuộc thế chiến này có trong nó các mầm mống giúp phát hiện quyền tự do cao siêu hơn của nhân loại, và trừ phi nhân loại dễ dàng biểu lộ mức tự do cao siêu này với hết năng lực mình, điều đó sẽ không thể xảy ra khi các Tinh Quân Giải Thoát hành động. Các Ngài không thể bị thôi thúc chỉ bằng sự khấn nguyện, thỉnh cầu và thỉnh nguyện mà thôi. Việc thỉnh cầu như thế phải có đàng sau nó cái lý tưởng về một mức tự do mới mẻ và một sự phóng khoáng nhiều hơn cho con người. Trong việc gạt bỏ chủ nghĩa lý tưởng của Pháp, được tóm tắt trong các ngôn từ – “Tự Do, Bình Đẳng, Ái Hữu” (“Liberty, Equality Fraternity”) sự chú ý của toàn thế thế giới được tập trung vào chủ đề tự do, và biểu tượng của biến cố có tầm quan trọng lớn lao hơn là cho đến nay người ta hiểu. Nước Pháp không từ bỏ lý tưởng về tự do của nhân loại mà thoạt đầu, nước này đã lôi cuốn sự chú ý của nhân loại (ở tầm mức lớn lao). Dưới ảnh hưởng của các kẻ thù của tự do con người, hành động của nước Pháp chỉ tập trung sự nguy hiểm mà nhân loại đang phải đối phó và mạnh mẽ đưa nó vào sự chú tâm của nhân loại, đang bị tê liệt bởi tai họa và bị hoang mang bởi sức nặng chồng chất của đau khổ. Do làm như thế, vấn đề trở thành đơn giản đối với thể trí chưa được luyện tập. Nói về mặt tâm linh, nó cũng tạo ra một đường thông thương trực tiếp giữa kẻ biết được ý nghĩacủa tự do và mong muốn cho nhân loại giải thoát, với các Tinh Quân Giải Thoát tức là các Đấng chịu trách nhiệm cho việc gieo rắc các ham muốn bẩm sinh này trong nhân loại.

Lý do tại sao các Tinh Quân Giải Thoát được nhắc đến đầu tiên trong đoạn kinh, đó là, về bản thể, các Ngài có liên hệ đến ý chí ham muốn (desire–will) và do đó được con người giao tiếp một cách dễ dàng hơn. Vị trí mà từ đó các Ngài xuất phát để trợ giúp nhân loại là một phạm vi nào đó của Tâm

Thức thiêng liêng đang khai mở trước ý thức hiểu biết của nhân loại, nếu được giác ngộ một cách đầy đủ và vị tha. Do đó, từ nhận xét trên, bạn có thể thấy làm cách nào mà việc sử dụng khấn nguyện có hiệu quả lại tùy thuộc vào mức độ phát triển tâm linh của kẻ đang tìm kiếm sự trợ giúp đối với khấn nguyện và thỉnh nguyện chân chính. Một điều sẽ được hiểu rõ liên quan đến tất cả các Đấng Cao Cả này đó là những gì thường được gọi là “việc thờ phụng” (“worship”) bị các Ngài ghê tởm. Việc thờ phụng, năng lực đối với việc tôn thờ và ý thức nể sợ (vốn là một trong các trạng thái sợ hãi cao nhất) đều không được các Ngài ưa thích. Các thái độ như thế đều có cội nguồn tình cảm dựa vào ý thức về nhị nguyên tính, do đó dựa vào cảm giác. Các Đấng này là những biểu hiện cho việc phụng sự và những kẻ phụng sự chân chính có thể tiếp cận với các Ngài bằng tiếng gọi phụng sự. Hãy ghi nhớ điều này. Khi tiến bộ trên Thánh Đạo (the Path), con người quên đi việc thờ phụng; con người mất hết mọi ý thúc về sự sợ hãi, và việc tôn sùng không còn thu hút sự chú ý của người ấy nữa. Tất cả các cách hành xử này đều bị xóa bỏ do việc nhận thức về một tình thương rất mạnh mẽ và sự tương tác tất nhiên của nó và khuynh hướng làm tăng thêm sự đồng nhất hóa. Do đó, có thể tiếp cận được với các Tinh Quân Giải Thoát bằng tiếng gọi của những người phụng sự trên thế giới và bấy giờ, các Ngài sẽ đưa ra qua trung gian của Một trong các Ngài, Đấng sẽ hợp nhất cá năng lượng của cả Ba Vị, và nhờ thế tạo ra các tình huống vốn sẽ mang lại mức độ tự do có hiệu quả và được thừa nhận. Các Ngài sẽ làm như thế nào, đây là điều mà chúng ta không cần bàn tới; phương pháp có thể xảy ra nhất sẽ là thông qua việc phù trợ (overshadowing) cho một số người, hay một nhóm người, sao cho họ sẽ được linh hứng để mang lại sự chiến thắng cho tự do.

Minh họa chung về thế giới

Khấn xin Đấng Kỵ Mã (Rider) chốn cao thâm giáng thế, Đến cõi này để hộ độ thế nhân.

Hỡi Đấng Đại Hùng (Mighty One) xin hãy giáng lâm.

Ở đây chúng ta đối đầu với một trong các truyền thuyết cổ xưa nhất trên thế giới và của Đông Phương cổ; truyền thuyết này cũng có phần tương ứng (counterpart) của nó trong kinh Tân Ước (New Testament), chỗ mà Đấng Tái Lâm (Coming One) được mô tả là đang xuất hiện để giải thoát con người “đang cưỡi trên Bạch mã”. Ở Tây phương, từ lâu, chúng ta đã suy tưởng bằng các thuật ngữ nói về “Con cừu được hy sinh cho việc xây dựng thế giới” và trong phát biểu này có ẩn một chân lý về chiêm tinh học sâu sắc. Nó liên quan đến vòng lớn của hoàng đạo (một chu kỳ độ chừng 25.000 năm) trong đó mặt trời vượt qua tất cả 12 cung hoàng đạo. Thời kỳ được đề cập bắt đầu ở cung Dương Cưu (the sign Aries), tức con cừu. Tuy nhiên, phương Đông vẫn còn bàn đến một chu kỳ sớm hơn nhiều và đến tận một ngày còn xưa hơn, xa tận đêm tối của thời gian, khi chu kỳ thế giới lớn hơn bắt đầu trong cung Nhân Mã (Sagittarius), Người Bắn Cung (Archer). Biểu tượng của cung này đôi khi (về phần sau của chu kỳ) được mô tả như là một người bắn cung, đang cưỡi ngựa và (trong phần đầu của chu kỳ) dưới hình thức quái vật centaur, nửa người nửa ngựa. Cả hai đều liên quan đến một thiên khải đang hiện ra của tâm thức Thượng Đế như đã được khải thị qua một Biểu Hiện Thiêng Liêng vĩ đại nào đó qua một Con của Thượng Đế đang biểu lộ. Điểm cần ghi nhớ là Đấng Kỵ Mã trên ngựa trắng này không phải là Thực Thể Thông Linh hay Đấng Cao Cả ngoài hành tinh, mà về bản chất là Đấng giống như chính chúng ta – con người và con thú hợp lại như tất cả chúng ta, nhưng được pha trộn bằng thiên tính và được đem lại linh hứng từ cõi cao, được làm linh hoạt (informed) bằng một Nguyên khí thiêng liêng thuộc vũ trụ, giống như Đức Christ được làm linh hoạt bằng Tình Thương của Thượng Đế và được thôi thúc tới việc khai mở tình thương đối với con người. Đấng Kỵ Mã là Đấng thuộc nhân loại chúng ta, Ngài đã đạt đến mục tiêu đã định trước và Ngài – vì chính tình thương và hiểu biết đối với con người – qua bao thời kỳ, vẫn ở lại trong chỗ bí nhiệm của thiên khải (như được gọi về mặt nội môn), đang chờ cho đến khi cơ hội của Ngài lại đến, và lúc đó Ngài có thể xuất lộ để dẫn dắt con dân của Ngài đến chiến thắng vinh quang. Đấng sắp đến này đang ở trên Con Đường của một Đấng Cứu Thế (world Saviour) cũng như các Đấng Cao Cả có huyền năng hơn, tức là các Tinh Quân Giải Thoát đang ở trên Con Đường Phụng Sự Thế Gian. Các Ngài xuất phát xuyên qua trung tâm tinh thần cao nhất nơi mà Thiên Ý (will of God) được giữ trong trạng thái tan hòa hay chăm sóc, để phóng rải dần hoặc khai mở từ từ khi nhân loại có thể đạt đến mức độ cần thiết để hiểu được sự đáp ứng và tiếp nhận. Mặc dù các Ngài có thể được tiếp cận một cách tương đối dễ dàng, việc đó phải được thông qua ý định được tập trung của nhiều thể trí tập hợp lại. Người tìm đạo cá biệt có thể tiếp cận được Đấng Kỵ Sĩ trên bạch mã, nếu y có thể nâng tâm thức mình lên cao một cách thích hợp. Đấng Kỵ Sĩ này xuất lộ (từ trung tâm mà Tình Thương của Thượng Đế được nắm giữ để phân phối), khi trung tâm của con người (mà chúng ta gọi là nhân loại) trở nên được điều chỉnh đúng với tình thương chân chính và có thể tự đồng hóa với mọi người, đáp ứng một cách tự do và không có sự ức chế nào đối với Bác Ái thiêng liêng – vốn là minh triết, hiểu biết và hoạt động khéo léo, có hiệu quả.

Khi thỉnh nguyện này được sử dụng một cách đúng đắn và được gióng lên bởi một số người thích hợp, tức những người có thể sử dụng ý chí giác ngộ ở một mức độ nào đó, thì họ có thể thành công trong việc tiếp cận với Tinh Quân Giải Thoát, và kết quả là tạo ra một vài loại can thiệp phi thường (phenomenal intervention). Những ai hoạt động thiên về mặt tình cảm hơn sẽ tiếp cận với Đấng Kỵ Mã từ chỗ bí nhiệm và có thể khấn nguyện đến Ngài để cứu trợ và dẫn dắt quần chúng.

Có đủ các thể trí biết tập trung và các trái tim nhiệt thành chăm chú để đạt dến hai trung tâm nơi mà các Đấng này đang chờ để có thể trợ giúp vào lúc này không? Đó là vấn đề. Điều đó sẽ xảy ra khi ba trung tâm – nhân loại, Thánh Đoàn tinh thần của hành tinh và “nơi mà Thiên Ý còn ẩn tàng” (các kinh sách cổ gọi là Shamballa) – trở nên thẳng hàng và có liên hệ mật thiết với nhau. Lúc bấy giờ sẽ thiết lập được một liên hệ trực tiếp giữa cả ba và một vận hà trực tiếp để cho sức mạnh giải thoát tuôn đổ vào. Điều này xảy ra chỉ một lần trước kia trong lịch sử nhân loại.

Do sự kiện là nhân loại quá yếu ớt vì đau ốm, căng thẳng thần kinh và thống khổ, có thể dường như là không được sáng suốt nếu các Tinh Quân Giải Thoát trực tiếp tiếp xúc với nhân loại. Các Ngài sẽ có thể làm được ba điều:

  1. Đứng đàng sau và củng cố cho Đấng Kỵ Mã trên bạch mã khi Ngài đáp ứng với nguyện vọng của con người ở khắp nơi, đang tuôn đổ qua Ngài năng lượng mãnh liệt biểu hiện cho trạng thái thiêng liêng đầu tiên, trạng thái ý chí, biểu hiện quyền năng. Như vậy các Tinh Quân Giải Thoát sẽ giúp cho Đấng Kỵ Mã thi hành ý chí của Thượng Đế theo cách thức sao cho nhân loại có thể hiểu được những gì đang được thi hành. Lúc bấy giờ nhân loại sẽ thấy được Tình Thương đang làm sinh động Ý Chí và Quyền Năng của Thượng Đế. Ý nghĩa thực sự của tự do lúc bấy giờ sẽ được tiết lộ. Điều đó chưa được hiểu rõ.
  1. Tuôn đổ ý–chí–hành–thiện đã được làm mạnh thêm của các Ngài vào Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian ở mọi nơi, ngõ hầu có thể có được tác động mạnh mẽ đồng thời phù hợp với các mục tiêu của Đấng Kỵ Mã từ chốn bí nhiệm.
  2. Kích thích và đưa vào thể trí của vài đệ tử tiến bộ một số lý tưởng mới vốn phải chi phối tiến trình giải thoát và tìm cách biểu hiện trong Kỷ Nguyên Mới. Điều này được thực hiện với một mức độ nhỏ vào lúc xảy ra cuộc cách mạng Pháp khi mà ba quan niệm chủ yếu về tự do được diễn đạt trong ba chữ Tự Do, Bình Đẳng, và Bác Ái (1) và được trình bày bằng trí tuệ cho nhân loại. Các quan niệm này hiện giờ tạm thời bị từ bỏ và điều này tự nó tạo một biến cố tượng trưng quan trọng. Việc đó tất phải xảy ra bởi vì ba từ ngữ này không thay thế cho một chân lý thực sự nào mà chỉ thay cho một hy vọng và một quan niệm có tính chất lý thuyết suông; các biến cố của vài tháng qua đã rút gọn chúng thành một hài kịch. Thế nên chúng được rút lại một cách có cân nhắc ngõ hầu làm tăng sự quan trọng của chúng, và sau đó sẽ được hoàn trả lại và bấy giờ sẽ khoác lấy một ý nghĩa mới và mạnh mẽ trong trí mọi người. Chúng là ba từ ngữ phải chi phối Kỷ Nguyên Mới.

Một vài giải thích theo quan điểm chủng tộc về các lý tưởng này cũng sẽ phải biến mất ngõ hầu được nối tiếp bằng các giải thích mới mẻ và thích hợp hơn. Điều này cũng áp dụng cho sự hiểu biết của con người về ba từ ngữ mà chúng ta đang nghiên cứu. Như các Tinh Quân Giải Thoát đã hậu thuẫn, “Tự Do” (“Liberty”) thực ra là việc thừa nhận các liên hệ đúng đắn của con người, được điều chỉnh một cách cởi mở, đảm nhận một cách tự nguyện và được thôi thúc bằng một ý thức trách nhiệm vốn dĩ sẽ tác động như bức tường bảo vệ; tự do này sẽ xảy ra không phải bằng các biện pháp cưỡng bách, mà là bằng sự giải thích đúng đắn và hiểu biết nhanh chóng của quần chúng, tức là những người hay lầm lộn sự phóng túng (licence) (quyền tự do của phàm ngã làm theo sự chọn lựa của bản chất thấp) với tự do của linh hồn và lương tâm. Tuy nhiên, tự do này là trạng thái thoải mái nhất của ý chí thiêng liêng theo nhận thức của nhân loại. Thực ra, đó là sự thiên khải đầu tiên được trao cho con người về bản thể của Ý Chí Thượng Đế và về đặc tính của Shamballa. “Bình Đẳng” (“Equality”) là sự hiểu biết đặc thù mà Đấng Tái Lâm sẽ tiết lộ, vốn được dựa vào nhận thức chính xác về sự cân xứng, lòng tự trọng đúng đắn và hiểu biết về các định luật tâm linh tuy tự nhiên, đó là luật Tái Sinh (law of Rebirth) và luật Nhân Quả và sẽ được xây dựng trong các thế kỷ sau này dựa vào sự nhận thức về kỷ nguyên của kinh nghiệm linh hồn và sự phát triển đã có được, chớ không dựa chút nào về sự xác định được nhấn mạnh rằng “mọi người đều bình đẳng” (“all men are equal”). “Tình huynh đệ” (“Fraternity”, Bác Ái) là điều mà chính nhân loại sẽ đóng góp vào với tư cách một biểu lộ của ngôi ba của Thượng Đế, dựa vào sự giao tiếp đúng đắn và phản ứng đúng đắn khi giao tiếp. Như vậy, dần dần sẽ phát triển được chủ đề sự sống đích thực của nhân loại, vốn là tình huynh đệ, được dựa vào cội nguồn thiêng liêng (bình đẳng) và đưa đến biểu hiện tự do và đích thực của thiên tính (tự do).

Có lẽ với các tư tưởng này trong trí, đoạn thứ nhất của Thỉnh Nguyện mới sẽ đóng vai trò quan trọng hơn, và bấy giờ bạn sẽ có thể thỉnh nguyện một cách sáng suốt với các Đấng Cao Cả, các Đấng này có thể tạo linh hứng cho hành động đúng đắn, như vậy mang lại sự cứu giúp và kêu gọi Đấng có thể giúp vào tình huống qua sự lãnh đạo đúng đắn.

Chúng ta không được biết Ngài sẽ hướng đến phân cảnh ý thức nào. Có thể là Ngài sẽ không hiện ra trên cõi trần một chút nào. Ai có thể nói được điều này? Nhưng tiếng vang về sự tái lâm của Ngài sẽ được biết đến và, nói một cách tượng trưng, tiếng sấm do móng ngựa của Ngài sẽ được nghe thấy. Ảnh hưởng mà Ngài sẽ tạo ra và năng lượng mà Ngài sẽ truyền đạt từ các Tinh Quân Giải Thoát, tất nhiên sẽ được cảm nhận mạnh mẽ, gợi được sự đáp ứng của con người ngay tức khắc. Điều nầy sẽ chứng tỏ là một sự kiện không thể chối cãi được. Phóng quang (radiation) đó của Ngài chắc chắn sẽ đi đến và bao quanh các đệ tử của Ngài, những kẻ đang đấu tranh chống lại từ lực. Nó giúp đệ tử cố gắng tột bậc để sẽ thắng được trận chiến vì nhân loại. Ngài sẽ đến từ “trên không” (in “the air”) là một lời tiên tri được biết rõ trong Tân Ước, như vậy cho phép “mọi con mắt đều thấy được Ngài”. Ngày nay, các ngôn từ này có ý nghĩa nhiều hơn là khi được viết ra cách đây gần hai ngàn năm, vì cuộc xung đột trên thế giới này là cuộc xung đột từ trên không thật rõ rệt. Các đạo sinh và những ai đang sử dụng Bài Khấn Nguyện này nên khôn ngoan ghi nhớ điều này nếu không họ có thể không thấy và không nhận biết được vị Cứu Tinh (Deliverer) khi Ngài đến – một điều trước kia đã từng xảy ra.

Bấy giờ chúng ta đến đoạn thứ hai, đoạn này đề cập trực tiếp đến các cách ứng xử và nhận thức của con người. Trong nhiều thập niên qua, tôi với tư cách là một trong các huấn sư tinh thần, cùng với nhiều người khác, đã tìm cách làm thức tỉnh mọi người trước sự thật về Ánh Sáng – ánh sáng trên thế giới, ánh sáng đến từ cõi dục vọng (rất thường được gọi là cõi cảm dục), ánh sáng soi sáng khoa học và tri thức của nhân loại, ánh sáng của linh hồn, vào đúng lúc, sẽ tạo ra ánh sáng trong đầu. Bạn đã được chỉ dẫn kỹ rằng việc sử dụng thể trí trong lúc tham thiền (meditation) và quán tưởng (reflection) sẽ dẫn đến mối liên hệ chính xác của linh hồn và phàm ngã, và rằng khi điều này xảy ra, thì ánh sáng của linh hồn sẽ bùng cháy hoặc nuôi dưỡng ánh sáng trong đầu và con người đạt đến giai đoạn giác ngộ. Dẫn chứng trong đoạn hai này phải là ý tưởng mở rộng hơn về mối liên hệ của nhân loại (giới nhân loại) với Thánh Đoàn tâm linh (Thiên giới). Khi hai giới này được thẳng hàng và liên kết chặt chẽ với nhau, ánh sáng sẽ bừng cháy trong từng người tìm đạo. Biến cố rất được ưa thích này có thể xảy ra với những người có tâm trí hướng về tâm linh trên thế giới, với những người nam và nữ có thiện chí, với các đệ tử trên thế giới, có liên quan với ý định “của quần chúng”. Điều này hàm ý là với một sự đồng nhất, sự tập trung hợp nhất – một điều mà cho đến nay hiếm khi được nhìn thấy và rất cần có vào lúc này. Rất nhiều người được thúc đẩy bằng sự mơ tưởng, bằng hy vọng hay bằng việc khấn nguyện; rất ít người được thôi thúc bằng sự quyết tâm (intention). Ở đây, quyết tâm là Sự quyết định (determination) không lay chuyển, bất biến mà một tình huống sẽ được vận dụng, những gì cần để giải thoát nhân loại chắc chắn phải hiện ra, vì đó là quyết tâm tinh thần (mental intention) của các thể trí có tập trung của nhiều người. Tôi muốn yêu cầu bạn suy gẫm nhiều về các từ ngữ này “ý định có tập trung” (“massed intent”) và phân biệt một cách thận trọng giữa sự quyết tâm và sự ham muốn (desire). Khi mà nhân loại đã đáp ứng với các tình huống nhờ sự đòi hỏi của thể trí có tập trung, dựa vào ý định của quần chúng được đưa ra một cách chính xác, bấy giờ việc xác định từ các Huyền lực tâm linh sẽ xảy đến.

Khấn xin thiên lệnh Đấng Chí Tôn (the Lord) được ban xuống: Đã đến lúc kết thúc ưu phiền cho thế nhân.

Do đó, việc kết thúc tình huống xấu hiện tại là biện pháp hợp tác; và ở đây, liên quan đến điều này, chúng ta có sự xuất hiện của Tinh Quân Văn Minh (Lord of Civilisation), Đấng đang nói lên và vạch ra trên cõi trần mệnh lệnh của Tinh Quân Giải Thoát và của Đấng Kỵ Mã từ chốn bí nhiệm. Nhờ sự điều khiển của Ngài, Ngài trợ giúp và làm gia tốc trên cõi trần và trong đấu trường cái mãnh lực do các Tinh Quân Giải Thoát tạo ra, được biểu hiện bởi Đấng sắp đến và được tập trung qua Ngài với tư cách Đấng Đại Biểu cho Thánh Đoàn ở Âu Châu. Công việc của Chân Sư R. luôn luôn được nhận biết như có bản chất đặc thù và như là có liên hệ đến các vấn đề văn minh, giống như công việc của Đức Christ, Chân Sư của tất cả các Chân Sư, có liên quan đến sự phát triển tâm linh của nhân loại; và công việc của Đức Bàn Cổ (Manu) là lo về môn cai trị thiêng liêng (divine government), chăm lo về chính trị và luật pháp. Như vậy năng lượng tập trung sắp đến, được đưa ra để đáp ứng lại với thỉnh nguyện đúng đắn, được đưa vào gần với nhân loại hơn và lúc bấy giờ quần chúng có thể đáp ứng với các xung lực mới mẽ. Do đó, bạn có:

  1. Các Tinh Quân Giải Thoát, được tiếp cận bởi các nhà tư tưởng tiến hóa về tâm linh trên thế giới, tức những người có thể trí được tập trung đúng chỗ.
  2. Đấng Kỵ Sĩ trên bạch mã (Rider on the white horse) hay từ chốn bí nhiệm (secret place) được tiếp cận bởi những người có trái tim được thấu đạt đúng đắn.
  3. Tinh Quân Văn Minh, Chân Sư R., được tiếp cận bởi tất cả những ai, với hai nhóm đầu tiên, có thể trụ lại với “ý định tập trung” (“massed intent”)

Về công việc hợp nhất của ba Vị này, nếu nhân loại có thể thành công trong việc khấn xin các Ngài xuất hiện, thì sự thẳng hàng (alignement) và mối liên hệ đúng đắn của ba trung tâm tinh thần vĩ đại của hành tinh sẽ xảy đến, một điều mà từ trước đến giờ chưa bao giờ xảy ra. Bấy giờ :

  1. Các Tinh Quân Giải Thoát sẽ nhận và truyền đạt năng lượng của Thánh Đoàn từ trung tâm mà Thiên ý được thấu triệt và được xúc tiến.
  2. Đấng Kỵ Mã sẽ nhận được năng lượng này và sẽ chọn hành động như thế nào để sẽ biểu hiện năng lượng đó, cộng với năng lượng thúc đẩy từ trung tâm mà Bác Ái của Thượng Đế được biểu hiện.
  3. Tinh Quân Văn Minh (Lord of Civilisation) sẽ làm phấn khích (stimulate) và chuẩn bị trung tâm mà chúng ta gọi là nhân loại để tiếp nhận đúng mãnh lực đang phóng rải, đang tạo phấn khích và đem sinh khí trở lại này.

Như vậy Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân loại sẽ giữ được sự giao tiếp hữu thức và mạnh mẽ với nhau. Ý Chí, Tình Thương và Sự Thông Tuệ của Thượng Đế như vậy sẽ hòa lẫn và pha trộn trên Địa cầu và có liên quan với các vấn đề của nhân loại. Tất nhiên, các tình huống sẽ xảy ra và năng lượng sẽ được đưa vào hoạt động và sẽ chấm dứt việc thống trị của tà lực và đưa chiến tranh đến chỗ kết thúc nhờ sự chiến thắng của các Mãnh Lực của Ánh Sáng, được Nhân Loại nhận biết và trợ giúp.

Sự tổng hợp ba năng lượng này, được tạo ra nhờ sự khấn nguyện và sự đáp ứng của một số Tiềm Lực (Potencies) thiêng liêng, mà về mặt huyền bí được gán cho tên gọi là “Mãnh Lực cứu trợ” (“the saving Force”). Thực ra, chúng ta không biết gì về bản chất chính xác của nó và các hậu quả được dự tính của nó cả. Trước đây, nó không bao giờ biểu hiện thành hành động trên cõi trần, mặc dù, có một thời gian nó linh hoạt trên cõi trí. Mặc dù đó là sự phối hợp các năng lượng của ba trung tâm nói trên, trước tiên chính năng lượng của Ý Chí thiêng liêng (divine Will), sẽ là đặc tính nổi bật của nó. Ở đây, tôi sẽ đưa ra một gợi ý. Cũng như sự thể hiện của chi bộ vật chất gồm có bảy người mà tôi có nhắc ở trên, đã tạo ra bề ngoài của nó và phải được bàn đến trước khi có sự hiển lộ trong tương lai của chi bộ các Thực Thể tâm linh (bề ngoài của Thiên giới trên Địa cầu) mà chúng ta gọi là Thánh Đoàn hành tinh, cũng vậy ý– muốn– có–quyền–hành (will–to– power) của các mãnh lực có tư tưởng thù địch đã xuất hiện trên Địa cầu và tìm cách kiềm chế nhân loại. hãy lưu ý mục tiêu đó. Ý–muốn–có–quyền–hành này chỉ có thể bị làm tan biến khi trạng thái cao siêu nhất của cùng một năng lượng được thả lỏng trong các con của nhân loại. Ý chí tâm linh thiêng liêng này, đã tham dự vào việc thôi thúc tình thương vị tha, có thể và phải được đánh thức để hủy diệt ý– muốn–quyền–lực ích kỷ và tội lỗi, hiện giờ đang lan tràn trên Địa cầu dưới sự hướng dẫn của bảy người tập trung ở Đức.

Do đó, “mãnh lực cứu trợ” phải được trải rộng ra. Trong nhiều thời kỳ dài, con người đã cầu nguyện bằng các lời của Thánh Paul: “Xin cho tình thương của Chúa tràn ngập trong tim chúng con” (Let the love of God be shed abroad in our hearts”). Ngày nay nhu cầu dành cho việc trải rộng “mãnh lực cứu trợ” phải bám chặt vào trí óc chúng ta và kiềm chế từ trung tâm điều khiển đó, vì việc đó biểu hiện cho sự cứu độ cần thiết vào lúc này. Nó sẽ chiếm lấy các nỗ lực hợp nhất của tất cả ba điểm tập trung của biểu hiện thiêng liêng trên hành tinh chúng ta để làm cho điều này có thể xảy ra, nhưng việc đó có thể được thi hành.

Trong đoạn cuối cùng (mà chúng ta không cần xem xét từng câu một, vì ý nghĩa của chúng đã đủ rõ ràng) chúng ta đã dứt khoát đặt trước mắt chúng ta các phương pháp mà theo đó nhân loại có thể đóng vai trò của mình và chia phần trong việc giúp đỡ tất cả những ai đang cộng tác với các Huyền Lực của Diệu Quang để đưa cuộc chiến trên hành tinh này đến chỗ kết thúc.

Hãy xem xét qua bốn từ ngữ biểu hiện cho ý tưởng về những gì con người có thể làm được để đưa tới việc hoàn thành sứ mệnh của Đấng Sắp Đến, tức Đấng Kỵ Mã ở chốn bí nhiệm. Chúng ta được dạy cho biết rằng Ánh Sáng, Tình Thương, Quyền Năng và Sự Chết phải được khơi hoạt để làm tròn mục tiêu của Đấng Cao Cả Sắp Đến. Ở đây chúng ta đi ngay đến đề tài thiết thực về vai trò cá biệt của con người trong các tiến trình giải thoát. Ở đây, chúng ta liên kết với những gì – trong chính nhân loại – cần đến sự thỉnh nguyện để tạo ra việc hợp tác đúng, chuẩn bị đúng và hiểu biết đúng.

Trong linh hồn con người hiện có bốn sức mạnh để cho từng người sử dụng hầu trợ giúp các Huyền Lực của Diệu Quang – các mãnh lực mà con người chia sớt với mọi người ở một mức độ lớn hay nhỏ, tùy theo năng lực biểu hiện của linh hồn. Đó là các mãnh lực không có sẵn trong phàm ngã, mà chỉ có trong chân ngã. Phàm ngã chiếu rọi lại các hình dạng méo mó lệch lạc của các năng lượng thiêng liêng cao siêu. Đây là một điểm cần được ghi nhớ cẩn thận. Tôi chỉ có thể nói ít với bạn về Ánh Sáng và Tình Thương. Các từ ngữ rất quen thuộc này có phần nào vô nghĩa đối với các môn sinh huyền bí học, và chỉ có những ai có thể bước đi trong ánh sáng, và phản ứng chủ yếu của họ là tình thương cho nhân loại, mới hiểu được ý nghĩa và sự liên hệ lẫn nhau của bốn từ ngữ này.

Ánh Sáng (Light), nhờ đó hiểu được cách nhìn mới mẻ, rất cần cho mọi người. Có thể cách nhìn này không nhất thiết làm vững mạnh thêm cho bất cứ cách nhìn nào trước kia, bất luận bề ngoài có thiên về tinh thần như thế nào đi nữa, nhưng có một điều gì đó hoàn toàn mới đến nỗi bạn sẽ cần mọi ánh sáng vốn có nơi bạn và một năng lực thấu hiểu lão luyện, nếu bạn cần nhận ra điều đó khi tiếp xúc.

Tình thương (Love), vốn không phải là xúc cảm (emotion) hay tình cảm (sentiment) và không có liên quan với thương cảm (feeling) (vốn là sự lệch lạc của tình thương đích thực) mà là sự quyết định không lay chuyển để làm những gì lợi ích nhất cho toàn thể nhân loại, hoặc cho tập thể (nếu bạn không thể có được ý niệm rộng lớn hơn) và làm điều này với bất cứ giá nào của riêng mình và bằng cách hy sinh tối đa. Chỉ có những ai thực sự yêu thương huynh đệ mình mới có thể thấy được vấn đề một cách rõ ràng và có thể hiểu được cái tất yếu của những điều phải được làm để kết thúc luật lệ kinh hoàng hiện nay và như thế báo trước sự ngự trị mới của hòa bình. Hòa bình không phải là mục tiêu cho nhân loại hoặc thời đại chúng ta, bất luận nhiều người nghĩ gì đi nữa. Đây là một chu kỳ hoạt động càng lúc càng tăng đều đặn, với mục tiêu là lưu tâm đến việc thiết lập các mối liên hệ đúng đắn giữa con người, được xúc tiến một cách sáng suốt. Hoạt động và sự thay đổi mạnh mẽ như thế thì không thích hợp với những gì thường được hiểu như là hòa bình. Hòa bình có liên quan đến khía cạnh tình cảm của sự sống và là mục tiêu vào thời Atlantis, thời đó hòa bình là một vấn đề tâm linh to tát. Nhưng hòa bình và lòng yêu hòa bình có thể trở thành liều thuốc gây ngủ nhẹ, và lúc này là như thế. Với mục tiêu thường thường là ích kỷ, và con người mong mỏi hòa bình bởi vì họ muốn được hạnh phúc. Hạnh phúc và hòa bình sẽ đến khi có các mối liên hệ đúng đắn giữa con người. Hòa bình và chiến tranh không phải là một cặp đối hợp thực sự (true pair of opposites). Bình lặng và thay đổi, yên tĩnh (hay tĩnh) và chuyển động (tức động) mới là các cặp đối hợp thực sự. Chiến tranh chỉ là một khía cạnh của lẽ biến dịch (change, tức sự thay đổi) và cội rễ của nó ở sâu trong vật chất. Hòa bình thường được mong muốn và được bàn thảo có liên quan đến hòa bình về vật chất, và trong mọi trường hợp, đều có liên quan với phàm ngã, dù đó là phàm ngã của cá nhân hay phàm ngã của nhân loại nói chung. Do đó tôi không bàn đến hòa bình, mà đề cập đến tình thương vốn thường làm xáo trộn sự cân bằng vật chất và hoàn cảnh vật chất, tất nhiên cóthể tác động chống lại cái thường gọi là hòa bình.

Quyền lực (Power) là điều bao giờ cũng được chú ý qua các thời đại, đối với nhân loại tiến bộ và đối với những ai có thể đáp ứng với trạng thái ý chí nhờ sự khai mở thể trí của họ. Đó là điều mà hiện nay đang trở thành mối quan tâm đối với quần chúng và đối với các hạng người tầm thường hơn, do đó thường bị lạm dụng và bị hướng vào các mục tiêu ích kỷ. Ở đây mãnh lực cần được khơi hoạt nằm ngoài nhân hồn, trong thời điểm cần thiết này là khả năng nhận biết Thiên Cơ và hành động để đẩy mạnh Thiên Cơ, có như vậy mới hợp tác được với các mãnh lực vốn đang cố gắng tái lập trật tự trên Địa cầu và kết thúc chu kỳ hận thù tệ hại mà ngày nay chính chúng ta đang sống trong đó.

Ở đây lại nảy sinh vấn đề đó là liệu chu kỳ này có dễ chấp nhận sự can thiệp và liệu sự can thiệp đó có đừng nên diễn ra như đã định. Tôi xin nhắc bạn rằng định luật chu kỳ là định luật chi phối sự xuất hiện và tan biến của các năng lượng linh hoạt và lớn lao khi các năng lượng này chuyển vào biểu lộ và ra khỏi biểu lộ trong khi hoàn thành thiên–ý (mục tiêu của Thượng Đế) và tuy thế bị giới hạn và ngăn trở bởi tính chất của các hình hài mà dựa vào đó chúng tạo ra tác động của chúng. Nếu có bất cứ sự can thiệp nào xảy tới thì đó sẽ là một sự “can thiệp đúng lúc”. Sự can thiệp như thế được ám chỉ đến trong các kinh sách như là Tân Ước, trong đó có tiên đoán rằng “vì lý do tuyển chọn, thời gian sẽ được rút ngắn lại”. Ý nghĩa thực sự của câu này (vốn không rõ rệt trong cách diễn giải có phần không thích đáng mà chúng ta đang có) là “bởi vì có sự tuyển chọn hay bởi vì những ai biết và chọn hành động đúng lúc, thì diễn tiến tệ hại sẽ bị chận đứng”. Ý tưởng này đang gây phấn khởi và tôi khuyên bạn nên lưu ý. Có một khả năng giúp người ta có thể vận dụng sự “chọn lựa” như thế – đó là tìm hiểu bản chất ban đầu và không ích kỷ của nó.

Còn Sự Chết (And Death) – điều này ám chỉ những gì? Không phải là cái chết của xác thân hay hình hài, vì cái chết đó tương đối không quan trọng; mà “năng lực từ bỏ” (“power to relinquish”) vào đúng lúc, năng lực này sẽ trở thành đặc điểm của vị đệ tử hữu thệ. Kỷ nguyên mới đang đến, các lý tưởng mới, nền văn minh mới, cách sống mới, cách giáo dục, cách trình bày mới về tôn giáo và về sự cai trị, đều đang từ từ hiện ra và không gì có thể chận đứng chúng được. Tuy nhiên, chúng có thể bị trì hoãn bởi những nhóm người hay phản kháng, bởi kẻ cực kỳ bảo thủ và có thể trí khép kín và bởi những kẻ bám vào quyết định cứng như kim cương, vào các lý thuyết ưa thích của họ, các mơ mộng và tầm nhìn (dream and visions) của họ, các giải thích và hiểu biết riêng thường là hẹp hòi của họ về các lý tưởng được đưa ra. Họ là những kẻ có thể và nhất định là ngăn cản chặng đường giải thoát của họ. Trạng thái uyển chuyển tinh thần, một sự tự nguyện để cho mọi ý tưởng và lý tưởng được định trước ra đi, cũng như các khuynh hướng được ưa thích, các thói quen tư tưởng được vun trồng và mọi nỗ lực kiên quyết để làm cho thế giới phù hợp với kiểu mẫu mà dường như đối với riêng y là kiểu mẫu tốt đẹp nhất, bởi vì, đối với y, đó là kiểu mẫu lôi cuốn nhất – tất cả các kiểu mẫu này hẳn là ở dưới mãnh lực của sự tử vong. Chúng có thể bị từ bỏ một cách an toàn và vững chắc, không lo gì về các hậu quả, nếu động lực thôi thúc của sự sống là tình thương thực sự và bền bĩ đối với nhân loại. Tình thương, tình thương tinh thần thực sự như linh hồn biết rõ, bao giờ cũng có thể được tin tưởng với sức mạnh và cơ may và sẽ không bao giờ phản bội sự tin tưởng đó. Tình thương đó sẽ đưa mọi vật cho phù hợp với tầm nhận thức của linh hồn.

Lần nữa, chúng ta có được năng lượng của ba trung tâm mà chúng ta đang trở nên quen thuộc và có thể thấy chúng đang được đưa lại với nhau, mối liên hệ chiến thắng của chúng được tan hòa và trộn lẫn nhau. Như vậy, hiển nhiên là các Đấng Cao Cả đưa ra Khấn nguyện thiết yếu và mới mẻ này đã vững tin vào khả năng của nhân loại – dựa vào trình độ ý thức của chính nhân loại – để biểu lộ ba tiềm lực thiêng liêng, đó là Ý Chí, Bác Ái, và Hoạt Động, ở một mức độ nào đó. Thỉnh nguyện được đưa ra cho Đấng Sắp Đến để trợ giúp trong việc phối hợp cả ba tiềm lực đó trên Địa cầu, nhờ thế đưa chúng vào biểu lộ ở cõi trần và như vậy hợp nhất các tiềm lực của giới nhân loại với các tiềm lực mà Ngài sẽ mang theo Ngài để cứu giúp nhân loại. Chỉ khi nào nhân loại cống hiến tất cả những gì mà nhân loại phải đưa ra để phụng sự kẻ bất hạnh, kẻ đau khổ, kẻ bị áp bức và kẻ làm việc một cách tích cực và sáng suốt để mang lại sự giải thoát thì sự hợp tác đầy đủ mới có thể được thiết lập giữa các tiềm lực bên trong và bên ngoài vốn vô cùng cần thiết vào lúc này. Thí dụ, những ai có thể dùng Bài Khấn Nguyện này với cách diễn đạt bằng tiếng, song song với một số hình thức phụng sự rõ rệt ở cõi trần, và như thế trợ giúp một cách xây dựng cho các Huyền Lực của Diệu Quang, trừ trường hợp đó ra, còn trong các trường hợp khác, các nỗ lực của họ sẽ tỏ ra không đáng kể. Chỉ một mình nhân loại mới có thể thúc đẩy các năng lượng mới đang đi đến từ các Tinh Quân Giải Thoát và giúp cho hoạt động của các Ngài có thể thực hiện được trên Địa cầu. Chỉ một mình nhân loại mới có thể mở rộng được các cánh cửa trên cõi trần cho Đấng Kỵ Mã từ chốn bí nhiệm. Các tiềm lực kỳ diệu bên trong có thể đạt đến một vài mức độ hoạt động và tiếp xúc của con người, như là cõi trí, nhưng sự tiến bộ tiếp theo của họ hướng xuống thành biểu hiện, năng lực và biểu lộ ngoại cảnh, lại tùy thuộc vào năng lực thu hút, mạnh mẽ, hướng vào trong chính con người.

Ý tưởng nằm sau các từ ngữ. “Tạo nên bức tường che chở bao la” có thể được diễn đạt một cách đơn giản bằng các từ ngữ : Xa đến thế mà thôi (Thus far and no further). Giới hạn đối với hiệu quả của biểu hiện sai trái và đối với khả năng của kẻ xâm lược đã được đạt đến nếu các đệ tử và những kẻ có thiện chí hiện nay đều đóng vai trò thích hợp của họ. Một cách tượng trưng, họ có thể dựng lên một bức tường kiên cố bằng ánh sáng tâm linh, tường này sẽ hoàn toàn gây bối rối cho kẻ thù của nhân loại. Đó sẽ là một bức tường năng lượng – có rung động mang tính chất bảo vệ và đồng thời có sức mạnh đến nỗi nó có thể đẩy lui những ai tìm cách vượt qua để theo đuổi các mục tiêu xấu xa tàn ác của họ. Tôi nói bằng các biểu tượng nhưng hàm ý của tôi rất rõ ràng.

Một điểm mà bạn cần hiểu rõ hơn và nó vừa là một khuyến khích vừa là một điểm khó tin. Nếu các con của nhân loại đang cộng tác với các Huyền Lực của Diệu Quang vào lúc này đang đứng một cách vững vàng, và nếu “ý định tập trung” (“massed intent”) của những người có thiện chí được đưa xuống từ cõi trí (nơi mà thiện chí, ước muốn, thỉnh nguyện và khấn nguyện đang trở nên “giá lạnh”) và được tách ra xa khỏi điểm tập trung dễ dàng trong cuộc sống mơ ước của người có đạo tâm, thiện chí trở thành biểu hiện linh hoạt và là hành vi mơ hồ trên cõi trần, thế nên công việc được làm thông qua phương tiện khấn nguyện và thỉnh nguyện, cộng với việc tranh đấu cần thiết cho lẽ phải, được thực hiện bởi những người có thể phối kết và hội nhập thực sự trên cả ba cảnh giới và như vậy tác động như một tổng thể. Điều này có nghĩa là kết thúc sự chế ngự của vật chất vào mọi lúc. Một tình trạng đáng mong muốn như thế có thể đến rất chậm, theo quan điểm của tầm nhìn thiển cận của con người, và thậm chí không thể trở nên rõ rệt theo ý nghĩa đầy đủ của nó đối với bạn trong cuộc sống này; tuy nhiên sự chiến thắng sẽ phải đạt được. Vật chất và sở thích vật chất sẽ không còn chi phối thế hệ sắp tới nữa như chúng đã chi phối hai thế hệ qua. Khi các mãnh lực với ý tưởng thù địch này, với lòng tham lam và độc ác bị đẩy lùi, điều đó có nghĩa là dục vọng / ham muốn ích kỷ bị tình thương không ích kỷ và sự hy sinh chinh phục. Đây là phần thưởng cho những kẻ đang làm việc với chúng tôi, nếu phần thưởng này được ưa thích. Tình huống đạt được này lúc bấy giờ sẽ đem nhân loại và Huyền Giai tinh thần lại gần nhau hơn; họ sẽ giao tiếp theo cách thức mới trong lịch sử. Sự thất bại của các quốc gia bị đàn áp và sự giải phóng của kẻ bị áp bức sẽ chỉ là dấu hiệu thấy được bên ngoài của một biến cố tâm linh bên trong – biến cố mà tất cả những người giác ngộ đều đang hứng chịu. Sau một thời kỳ điều chỉnh và tất nhiên sẽ mang lại các khó khăn đặc biệt của riêng nó – nó sẽ mở ra trong thế giới mới, tất cả những gì có liên quan. Tôi đã đặt trước mắt bạn điều có thể xảy ra. Như đã nói trước đây, tôi muốn lặp lại rằng chính nhân loại đang định đoạt số phận của chính mình. Con người đã vượt qua được giai đoạn ấu trĩ và hiện giờ đang trưởng hành, mặc dù không già dặn. Sự già dặn được đạt đến nhờ kinh nghiệm và sự định đoạt tự tạo ra, và đôi khi, chúng tôi, những kẻ ra sức dẫn dắt, đã hạn chế các nỗ lực của chúng tôi khi tiếp cận người sáng suốt, tạo ấn tượng lên người có tâm trí thiên về tâm linh, và thúc đẩy nhân loại đi đến hành động đúng mà không xâm phạm vào biểu hiện của tự do ý chí đang phát triển của con người. Thế nên kết quả không thể tiên đoán được, mặc dù chúng ta có thể thấy một phạm vi nào đó không thể tránh khỏi trong các biến cố sau này. Nhưng con người được tự do chọn lựa con đường mà y sẽ đi và nhiều trách nhiệm cho sự chọn lựa của con người đang đặt lên vai của người được dạy dỗ nhiều hơn trong gia đình nhân loại và đặt vào những ai đã đạt được một mức độ nào đó của tầm nhìn xa trông rộng.

Với các suy tư về Khấn Nguyện mới này, tôi muốn để cho bạn rút ra các ý tưởng từ những nơi sâu kín trong ý thức trầm tư của bạn. Tôi muốn yêu cầu bạn dùng Khấn Nguyện một cách thường xuyên, với định tâm mạnh mẽ và hiểu biết chính xác và như thế hợp tác – bằng cách sử dụng nó, bằng tình thương nhân loại của bạn, và bằng hoạt động của bạn đứng về phía các Huyền Lực Diệu Quang – với những ai ở trên các cảnh giới nội và ngoại, những kẻ đang tìm cách đưa tư tưởng thù địch trở lại chỗ xuất phát của nó và chấm dứt sự chế ngự của thù ghét và sợ hãi.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh