Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn: Nguyên Nhân Tai Họa Trên Thế Giới

SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN: NGUYÊN NHÂN TAI HỌA TRÊN THẾ GIỚI

Tháng 6–1942

Bây giờ chúng ta đi đến việc xem xét về tình hình nghiêm trọng hiện nay và tai họa trên thế giới vốn có cội nguồn trong ảo cảm của thế gian, và sẽ nghiên cứu năng lực làm giảm nhẹ và chữa trị. Năng lực này hiện hữu và được tập trung vào hai Đấng Hóa Thân vĩ đại là Đức Phật và Đức Christ.

Khó mà trình bày rõ ràng về vấn đề ảo cảm thế gian này(1) vì chúng ta đang ở giữa biểu lộ tập trung nhất của nó – điều tệ hại nhất mà thế giới chưa bao giờ chứng kiến vì ảo cảm vốn gắn liền với nhiều thế kỷ tham lam và ích kỷ, đầy tư tưởng thù địch và thiên về vật chất, đã được tập trung trong ba quốc gia này. Do đó ảo cảm dễ dàng được nhận thấy và biểu lộ có hiệu quả nhất. Ba quốc gia này tượng trưng cho ba trạng thái ảo cảm thế gian (ảo tưởng, ảo cảm và ảo lực) bằng một cách thức đáng kinh ngạc, và cuộc tấn công mạnh mẽ của chúng vào ý thức của nhân loại không những tùy thuộc vào sự đáp ứng của nước Đức, Nhật và Ý với bầu độc khí cổ xưa này, mà còn tùy thuộc vào sự việc là mọi quốc gia – Liên Hiệp Quốc cũng như các Quốc gia Độc Tài – bị lây nhiễm vì tình trạng chung này. Nền tự do của thế giới tất nhiên phần lớn tùy thuộc vào con người ở mọi quốc gia, những người này (trong chính họ) đã vượt ra khỏi hình thức này hay hình thức khác trong số “các ảo tưởng quyến rũ của các ấn tượng do ảo lực” (“glamourous illusions of mayavic impressions”) của linh hồn con người thành một trạng thái hiểu biết trong đó họ có thể thấy được cuộc xung đột bằng các tên gọi rộng lớn hơn, nghĩa là, bằng tên gọi hiện có cho chúng, giữa Tổng Quả Báo với Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục.

Những người này là những người tìm đạo, các đệ tử và đệ tử điểm đạo trên thế giới. Họ biết được thuyết nhị nguyên, tức nhị nguyên chủ yếu của cuộc xung đột chứ không biết một cách tỏ tường về bản chất tam phân và tình trạng phân hóa của tình huống nằm dưới nhị nguyên đã được hiểu rõ này. Do đó, họ tiếp cận với vấn đề một cách đơn giản hơn và, vì lẽ đó, vào lúc này, chiều hướng thế giới phần lớn nằm trong tay họ.

Ở đây, đúng là tôn giáo, nói chung đã lạc lối. Tôi đề cập đến chính thống giáo. Do đã vướng bận với Tổng Quả Báo và con mắt của nhà thần học đã dừng lại ở khía cạnh vật chất thuộc cõi hiện tượng của sự sống do nỗi lo sợ và tính cấp thiết của nó, còn sự kiện về Thiên Thần là một lý thuyết và là một điểm mơ tưởng. Sự thăng bằng được điều chỉnh bởi các cách hành xử đầy nhân bản phần lớn đang đi vào sự kiềm chế, không kể bất cứ khuynh hướng thần học nào. Các thái độ này có lập trường dựa trên niềm tin vào sự công chính cố hữu của tinh thần nhân loại, vào thiên tính của con người và dựa vào bản chất không thể hủy diệt được của linh hồn nhân loại. Tất nhiên điều này mang lại ý niệm về Bản Lai Diện Mục, hay về Thượng Đế Nội Tại và là kết quả của việc phản kháng cần thiết chống lại với tính phiến diện (one–sidedness) của niềm tin vào Thượng Đế Siêu Việt. Cuộc cách mạng tâm linh này hoàn toàn là một tiến trình quân bình và không đòi hỏi tạo ra mối liên hệ căn bản nào, vì Thượng Đế Siêu Việt lúc nào cũng hiện hữu, nhưng chỉ có thể được nhìn thấy, nhận biết và tiếp cận một cách chính xác bởi Thượng Đế Nội Tại – nội tại trong con người cá biệt, trong các nhóm và các quốc gia, trong các hình thức tổ chức và trong tôn giáo, trong nhân loại nói chung và trong Chính Hành Tinh Thượng Đế. Nhân loại ngày nay (và đã từ nhiều thời đại) đang tranh đấu với ảo tưởng, ảo cảm và ảo lực. Những nhà tư tưởng tiến bộ, những người ở trên Con Đường Dự Bị, Con Đường Đệ Tử và Con Đường Điểm Đạo đều đã đạt đến điểm mà chủ nghĩa vật chất và tính chất duy linh, tức Tổng Quả Báo và Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục, và thuyết nhị nguyên căn bản của biểu lộ có thể được thấy giải thích một cách rõ ràng. Nhờ có đường phân chia rõ rệt này, các vấn đề nằm dưới các biến cố hiện tại trên thế giới, các mục tiêu của cuộc tranh chấp rộng lớn trên thế giới hiện nay, các cách thức và phương pháp để thiết lập lại sự giao tiếp tâm linh rất phổ biến vào thời Atlantis và đã thất truyền từ rất lâu, và việc nhận biết về các kỹ thuật có thể tham dự vào kỷ nguyên trên thế giới và trật tự văn hóa của nó có thể được ghi nhận và đánh giá một cách rõ ràng.

Mọi sự khái quát đều chấp nhận có sai lầm. Tuy nhiên, có thể nói rằng nước Đức đã tập trung vào chính mình ảo cảm của thế giới (world glamour) – trạng thái mạnh mẽ nhất và gây ấn tượng nhất (expressive) trong số ba trạng thái của ảo cảm. Nước Nhật đang biểu hiện sức mạnh của ảo lực (maya) – hình thức thô sơ nhất của sức mạnh của vật chất. Nước Ý, an trụ về mặt cá nhân và trí tuệ, là biểu hiện cho ảo tưởng thế giới (world illusion). Liên Hiệp Quốc, với mọi lỗi lầm, các giới hạn, các nhược điểm và các chủ nghĩa quốc gia dân tộc, đang tập trung sự xung đột giữa Tổng Quả Báo với Thiên Thần, và như vậy ba hình thức ảo cảm và hình thức cuối cùng của cuộc xung đột giữa lý tưởng tâm linh với địch thủ vật chất của nó đang đồng thời xuất hiện. Tuy nhiên, một cách từ từ và dứt khoát, Liên Hiệp Quốc đang phóng ra sức mạnh của nỗ lực và khát khao của họ vào khía cạnh của Thiên Thần, như vậy phục hồi lại sự quân bình đã mất và từ từ tạo ra ở mức độ hành tinh, các thái độ và tình huống mà sau rốt sẽ xua đi ảo tưởng, đánh tan ảo cảm và làm cho ảo lực đang thịnh hành mất hết sinh lực. Họ đang làm điều này bằng sự suy tư rõ rệt ngày càng tăng của quảng đại quần chúng thuộc mọi quốc gia, cùng ràng buộc với nhau để chinh phục ba cường quốc khối Trục bằng năng lực ngày càng tăng của họ ngõ hầu nhận thức các ý tưởng liên quan đến tổng thể, liên quan đến trật tự được ưa thích trên thế giới hay liên bang và năng lực phân biện của họ giữa các Huyền Lực của Diệu Quang với sức mạnh của tà lực hay chủ nghĩa duy vật.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Công việc được thi hành bởi những ai thấy được thế giới như là diễn trường cho cuộc xung đột giữa Tổng Quả Báo với Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục có thể được liệt kê như sau:

  1. Tạo ra các tình huống trên thế giới trong đó các Huyền Lực Diệu Quang có thể vượt qua các Tà Lực. Họ làm điều này bằng sức mạnh của các lực lượng vũ trang của họ, cộng với sự hiểu biết sâu rộng của họ.
  1. Giáo dục nhân loại bằng cách phân biệt giữa
    1. Tinh thần với vật chất (Spirituality and materialism), chỉ ra các mục tiêu khác nhau của các sức mạnh đang tranh chấp.
    2. Chia sẻ và tham lam (Sharing and greed), vạch ra một thế giới tương lai trong đó bốn tự do sẽ chiếm ưu thế và sẽ có được những gì cần cho các tiến trình sinh hoạt đúng đắn.
    3. Ánh sáng và bóng tối (Light and dark), chứng minh sự khác nhau giữa tương lai sáng tỏ của tự do và thời cơ với tương lai đen tối của nô lệ.
    4. Tình thân hữu và sự chia rẽ (Fellowship and separation), cho thấy một trật tự thế giới nơi mà sự thù hận về chủng tộc, phân biệt giai cấp và các dị biệt tôn giáo sẽ không tạo ra chướng ngại cho sự cảm thông quốc tế và trật tự khối Trục của các giống dân thống soái (master races), các thái độ tôn giáo rõ ràng và các dân tộc bị bắt làm nô lệ.
    5. Cái tổng thể và cái từng phần (The whole and the part) cho thấy thời điểm đang đến gần (dưới sự thôi thúc tiến hóa của tinh thần) trong đó cái từng phần hay mức độ sự sống nhận lãnh trách nhiệm đối với cái tổng thế, còn tổng thể hiện hữu đem lại tốt lành cho cái từng phần. Trạng thái đen tối đã xảy ra bởi các thời kỳ ảo cảm. Ánh sáng được làm cho mạnh thêm và làm cho sáng tỏ bởi những người tìm đạo và đệ tử trên thế giới, bằng thái độ, hành vi, bằng các tác phẩm và các phát biểu của họ, họ đưa ánh sáng vào những chỗ tối tăm.
  1. Chuẩn bị con đường cho ba năng lượng tinh thần vốn sẽ đưa nhân loại vào kỷ nguyên hiểu biết, dẫn đến việc làm sáng tỏ thể trí có tập trung của trí tuệ con người trên khắp thế giới. Ba năng lượng sắp đi đến này là :
  1. Năng lượng của trực giác (the energy of the intuition) sẽ dần dần xua tan ảo tưởng thế gian và tự động tạo ra một tăng gia lớn lao hàng ngũ các đệ tử điểm đạo (đạo đồ).
  2. Bằng năng lượng của sự giác ngộ (the energy of Ilumination), mà hoạt động của ánh sáng sẽ xua tan thế giới ảo cảm và đưa nhiều ngàn người lên trên con đường Đệ Tử.
  3. Năng lượng của linh hứng (the energy of inspiration) qua trung gian của mãnh lực đang lướt qua của nó, sẽ đưa đến việc làm mất sinh khí hoặc xua đi, giống như bằng một cơn gió, mãnh lực thu hút của ảo lực hoặc vật chất. Năng lượng này sẽ để cho hàng ngàn người bước lên Con Đường Dự Bị.
  4. Phóng rải sự sống mới vào hành tinh nhờ trung gian của mọi tác nhân có thể có. Giai đoạn đầu tiên hướng về sự phóng rải này là chứng minh rằng sức mạnh của chủ nghĩa vật chất bị bẻ gãy bởi sự thất bại hoàn toàn của các cường quốc khối Trục, và giai đoạn thứ hai, bằng khả năng Liên Hiệp Quốc để chứng tỏ (khi điều này được thực hiện) sức mạnh của các giá trị tâm linh bởi nhiệm vụ kiến tạo của họ để phục hồi trật tự thế giới và đặt ra các nền tảng vốn sẽ đảm bảo một cách sống tốt đẹp hơn và thiên về tinh thần nhiều hơn. Các thái độ xây dựng này và các nhiệm vụ phải được đảm trách do từng cá nhân bởi mọi người, và bởi các quốc gia dưới hình thức các tổng thể tập hợp. Hiện giờ bước thứ nhất đang được thi hành. Cho đến nay bước thứ hai vẫn cần phải làm.
  1. Làm sáng tỏ cho các quốc gia trên thế giới các chân lý mà Đức Phật, tức Vị Chúa Ánh Sáng và Đức Christ, tức Vị Chúa Bác Ái, đã dạy ra. Về mặt căn bản có thể nêu ra như sau:
    1. Các quốc gia khối Trục cần phải hiểu giáo lý của Đức Phật như Ngài đã nêu ra trong Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths); họ cần hiểu rõ rằng nguyên nhân của mọi phiền muộn và bất hạnh là ham muốn – ham muốn về vật chất.
    2. Liên Hiệp Quốc cần học cách áp dụng Định Luật Bác Ái như đã được nêu lên trong cuộc đời của Đức Christ và để bày tỏ chân lý rằng “không một ai sống cho chính mình” (“no man liveth unto himself”) và không trừ quốc gia nào cả, đồng thời chính mục đích của mọi cố gắng của con người là cảm thông bằng tình thương (loving understanding), được thúc đẩy bằng chương trình bác ái cho tổng thể.

Nếu các kiếp sống và các giáo huấn của hai Đấng Hóa Thân vĩ đại này có thể được thấu hiểu và được thể hiện trở lại trong các kiếp sống của con người ngày nay, trong cõi thế sự nhân gian, trong lãnh vực suy tư của con người và trong diễn trường của cuộc sống hằng ngày, thì trật tự thế giới hiện tại (mà ngày nay phần lớn đều vô trật tự) có thể được biến cải và thay đổi đến mức mà một thế giới mới và một nhân loại mới có thể dần dần xuất hiện. Việc từ bỏ và việc vận dụng (1) ý chí hy sinh nên trở thành chủ âm (keynote) cho thời kỳ chuyển tiếp hậu chiến, trước khi khai mở Kỷ Nguyên Mới (New Age).

Các đạo sinh cần nhớ rằng mọi biểu lộ và mọi điểm khủng hoảng đều được tượng trưng bằng biểu tượng cổ: một điểm nằm trong vòng tròn, chỗ tập trung sức mạnh bên trong một vùng ảnh hưởng hay hào quang. Vì thế ngày nay cùng với toàn bộ vấn đề kết thúc ảo cảm và ảo tưởng trên thế giới, về căn bản, có ẩn đàng sau một tình hình nghiêm trọng và tai họa cho thế giới. Khả năng xua đuổi và làm tiêu tan như thế được tập trung một cách rõ rệt vào hai Đấng Hóa Thân, Đức Phật và Đức Christ.

Bên trong thế giới ảo cảm (world of glamour) – thế giới của cõi cảm dục (astral plane) và của các xúc cảm – xuất hiện một điểm ánh sáng. Vị Chúa Ánh Sáng, tức Đức Phật, đảm trách việc tập trung vào chính Ngài việc chiếu rọi mà sau rốt có thể làm cho ảo cảm tan biến. Bên trong thế giới ảo tưởng – thế giới của cõi trí – xuất hiện Đức Christ, Vị Chúa Bác Ái, Ngài biểu hiện trong chính Ngài mãnh lực của ý chí thu hút (attractive will) của Thượng Đế. Ngài đảm trách việc xua đuổi ảo tưởng bằng cách thu hút về chính Ngài (bằng sức mạnh của tình thương) tâm của mọi người và đưa ra quyết định này bằng các ngôn từ như sau: “Còn ta, khi ta được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta”(1) (“And I, if I be lifted from the earth, will draw all men unto me”) (John 12:32). Từ điểm này, bấy giờ họ sẽ đạt đến được, cõi giới của nhận thức tâm linh của chân lý và của ý tưởng thiêng liêng sẽ lộ ra. Kết quả sẽ là sự tan biến của ảo tưởng (illusion).

  • Công việc kết hợp của hai Vị Con vĩ đại của Thượng Đế, được tập trung qua các đệ tử trên thế giới và qua các đệ tử điểm đạo của các Ngài phải và nhất định sẽ làm tan rã ảo tưởng và xua đi ảo cảm – một phần nhờ nhận thức được thực tại bằng trực giác bởi các thể trí được điều hợp với nó, còn phần khác do ánh sáng của lý trí tuôn đổ vào. Đức Phật đã tạo ra nỗ lực đầu tiên trên hành tinh để xua đi ảo cảm thế giới; Đức Christ đã tạo ra nỗ lực đầu tiên trên hành tinh hướng về việc xua đi ảo tưởng. Bây giờ công việc của các Ngài phải được tiến hành một cách sáng suốt vì nhân loại đã đủ khôn ngoan để nhận biết được thiên chức (1) (dharma) của mình. Con người đang nhanh chóng phá vỡ ảo tưởng và tất nhiên sẽ thấy được rõ ràng hơn. Ảo cảm thế giới đang được dần dần xua ra khỏi lối đi của con người. Hai phát triển này đã được mang lại bằng các ý tưởng mới sắp đến, được tập trung qua những người có trực giác trên thế gian và được những nhà tư tưởng trên thế giới truyền bá cho quảng đại quần chúng. Quần chúng cũng được trợ giúp phần lớn bằng sự nhận thức hầu như vô ý thức, tuy nhiên lại có thực, về ý nghĩa đích thực của Tứ Diệu Đế. Ảo tưởng bị phá vỡ và ảo cảm bị xua tan (disillusioned and de-glamoured) (tôi tạm dùng thuật ngữ như thế), nhân loại đang chờ sự thiên khải sắp đến. Sự thiên khải này sẽ được mang lại bằng các nỗ lực kết hợp của Đức Phật và Đức Christ. Tất cả những gì mà chúng ta có thể thấy trước hoặc nói trước liên quan đến sự thiên khải đó, chính là một vài kết quả mạnh mẽ có ảnh hưởng lớn, sẽ được đạt đến bằng sự pha trộn của ánh sáng và tình thương và bằng phản ứng của “chất liệu được soi sáng đối với mãnh lực thu hút của tình thương”. Trong câu này tôi đã đưa ra cho những ai có thể hiểu được ẩn ý sâu xa và hữu ích đối với phương pháp và mục đích của nhiệm vụ được sắp xếp cho Kỳ Trăng Tròn tháng 6 năm 1942. Tôi cũng có đưa ra một manh mối để hiểu đúng được công việc của Đấng Hóa Thân này – một điều mà từ trước đến giờ hoàn toàn không được hiểu rõ. Có thể thêm rằng khi hiểu rõ ý nghĩa của các từ “sự biến dung của một người” (“transfiguration of a human being”) thì người ta sẽ đi đến chỗ hiểu được rằng khi “thể xác đầy ánh sáng” (“the body is full of light”) thì bấy giờ “trong ánh sáng đó chúng ta thấy được Diệu Quang” (“in that light shall we see Light”). Điều này hàm ý là khi phàm ngã đã đạt đến mức trong sạch, đến mức biết hiến dâng và giác ngộ, thì bấy giờ mãnh lực thu hút của linh hồn (bản chất của linh hồn là bác ái và cảm thông) mới có thể tác động được, và sự phối hợp cả hai bản chất này sẽ xảy ra. Đấy là những gì mà Đức Christ đã nêu ra và đã chứng minh.

Khi công việc của Đức Phật (hay của nguyên khí bồ đề được thể hiện) lên đến cao điểm trong vị đệ tử đang mong đợi và trong phàm ngã đã hội nhập của vị đệ tử, bấy giờ biểu hiện đầy đủ của công việc Đức Christ (nguyên khí bác ái được thể hiện) cũng có thể lên đến tột đỉnh và cả hai mãnh lực này – ánh sáng và tình thương – sẽ biểu lộ rực rỡ trong vị đệ tử đã biến dung (transfigured disciple). Do đó, những gì đúng cho cá nhân thì cũng đúng cho nhân loại nói chung, và ngày nay nhân loại, nhờ đã trưởng thành, có thể “đi vào nhận thức” (“enter into realisation”) và đóng góp một cách có ý thức vào công việc khai ngộ và vào hoạt động bác ái, tinh thần. Các hiệu quả thực tiễn của tiến trình này sẽ là việc làm tan biến ảo cảm và giải thoát tinh thần con người ra khỏi ngục tù của vật chất; điều đó cũng sẽ tạo ra việc xua tan ảo tưởng và việc nhận thức được chân lý như nó đang hiện hữu trong ý thức của những ai đã an trụ vào “ý thức của Đức Christ”.

Tất nhiên đây không phải là tiến trình nhanh chóng, mà là một phương thức đã được sắp xếp và điều chỉnh, chắc hẳn sau cùng sẽ thành công nhưng cũng tương đối chậm trong việc thành lập và tiến trình tuần tự của nó. Tiến trình này được khởi đầu trên cõi cảm dục do Đức Phật, và trên cõi trí khi Đức Christ biểu hiện trên cõi trần. Điều đó cho thấy sự trưởng thành sắp đến của nhân loại. Tiến trình này đã dần dần gom góp động lực thúc đẩy khi hai Đấng Cao Cả này triệu tập các đệ tử điểm đạo chung quanh các Ngài trong hai ngàn năm qua. Điều đó đã đạt đến một mức độ hữu ích rất lớn khi con đường thông thương giữa Shamballa với Thánh Đoàn đã được mở rộng, và khi sự giao tiếp giữa hai trung tâm vĩ đại này với nhân loại đã được thiết lập một cách vững chãi hơn.

Vào Kỳ Trăng Tròn tháng 6 năm 1942, sẽ xảy ra cuộc trắc nghiệm đầu tiên đối với sự trực tiếp thông thương (the directness of communication) giữa Trung Tâm mà Thiên Ý đang chế ngự, tức Trung Tâm mà Tình Thương của Thượng Đế đang chi phối với Trung Tâm đang có sự mong đợi sáng suốt. Môi trường thử nghiệm sẽ là nỗ lực hợp nhất của Đức Christ, của Đức Phật và của những ai sẽ đáp ứng được với ảnh hưởng được phối hợp của các Ngài. Cuộc thử thách nàyphải được tiến hành ở giữa cuộc tàn sát khủng khiếp của các mãnh lực tàn ác và sẽ được kéo dài suốt hai tuần lễ bắt đầu vào ngày Trăng Tròn (30–5–1942) và kết thúc vào ngày 15–6– 1942. Có một sự tập trung to tát các Mãnh Lực Tinh Thần (Spiritual Forces) vào lúc sử dụng Bài Khấn Nguyện đặc biệt này (chính nhân loại không thể sử dụng bài này), nhưng sự thành công hoặc thất bại của cuộc thử nghiệm, sau rốt, sẽ được chính nhân loại định đoạt.

Bạn có thể thấy, mặc dù một cách sai lạc, rằng không có đủ người biết được hay hiểu được bản chất của cơ hội hay những gì đang xảy ra. Nhưng sự thành công của một thử thách như thế lại không tùy thuộc sự hiểu biết nội môn của một ít người, tương đối rất ít, mà các dữ kiện và thông tin đã được truyền đạt phần nào cho họ rồi. Điều đó cũng tùy vào khuynh hướng của nhiều người đang rất khao khát hướng về các thực tại tâm linh, họ đang mưu tìm một cách sống mới mẻ và tốt đẹp hơn cho mọi người, họ mong muốn điều tốt lành cho tất cả và sự mong mỏi, ước muốn của họ là có được một kinh nghiệm thực sự về đức hạnh, về các mối liên hệ chính đáng của con người và về hoạt động tâm linh trong con người. tên gọi của họ thì rất nhiều và họ đều có mặt ở mọi quốc gia.

Khi Thiên Ý (được biểu lộ ở Shamballa và tập trung trong Đức Phật), Tình Thương của Thượng Đế (được biểu lộ trong Thánh Đoàn và tập trung qua đức Christ), và ước muốn sáng suốt của nhân loại (được tập trung qua các đệ tử, những người tìm đạo trên thế giới và những người có thiện chí) tất cả đều được theo đúng – hoặc một cách hữu thức hoặc vô thức – thì bấy giờ việc tái định hướng vĩ đại có thể và sẽ xảy ra. Biến cố này là một sự việc vốn có thể xảy ra.

Kết quả đầu tiên sẽ là làm sáng tỏ cõi cảm dục (astral plane) và bắt đầu tiến trình xua tan ảo cảm. Kết quả thứ hai sẽ là chiếu rọi cõi trí (mental plane) và xua tan mọi ảo tưởng đã có và dần dần khai mở các chân lý mới mà so với các chân lý này, mọi lý tưởng đã có trước và cái thường gọi là các công thức chân lý, giờ đây chỉ là các cột đánh dấu. Hãy suy gẫm về quan điểm này. Cột đánh dấu cho thấy con đường phải đi; nó không tiết lộ mục tiêu. Nó có tính cách chỉ dẫn chớ không có tính cách xác quyết. Cho đến ngày nay, tất cả mọi chân lý đều như thế.

Do đó, điều cần thiết đối với các bậc thức giả (knowers) và đối với những ai mà trí và tâm đều mở rộng, tức là người đã thoát khỏi các định kiến đã nắm giữ một cách cuồng nhiệt và thoát khỏi các chủ thuyết lý tưởng cổ xưa, các điều này phải được nhận biết như là các chỉ dẫn chỉ một phần của các chân lý vĩ đại chưa được hiểu hết – các chân lý này có thể được nhận biết ở phạm vi lớn và lần đầu tiên nếu các bài học về tình hình thế giới hiện nay và thảm họa của chiến tranh được học hỏi một cách thích đáng và ý chí hy sinh được huy động.

Tôi đã đưa ra áp dụng thực tiễn và hình ảnh ngay trước mắt này để giảng giải về ảo cảm, ảo tưởng và ảo lực, bởi vì ngày nay toàn bộ vấn đề thế giới đã đến giai đoạn nguy kịch và bởi vì sự sáng tỏ của nó sẽ là chủ đề nổi bật của mọi tiến bộ – về giáo dục, tôn giáo và kinh tế – cho đến năm 2025 sau T.C..

Ngày nay, khi nhân loại đang chờ sự thiên khải vốn sẽ biểu hiện cho các tư tưởng, các mơ ước và mục tiêu kiến tạo của Kỷ Nguyên Mới, lần đầu tiên thỉnh nguyện đến từ một nhóm lớn gồm những người có khuynh hướng trực giác. Hỡi huynh đệ tôi không nói những kẻ có trực giác (intuitives). Hiện nay nhóm người này rất đông và điểm tập trung của nhóm hiện giờ rất thực tiễn và nhu cầu của nhóm rõ rệt đến đỗi nhóm đang thành công trong việc gom lại ý định có tập trung của con người. Do đó, bất luận thiên khải nào có thể xuất hiện trong tương lai trước mắt cũng sẽ được “bảo vệ kiến hiệu bằng tinh thần hiểu biết” hơn là bất cứ thiên khải nào trước đây. Đây là ý nghĩa của các lời trong Tân Ước (New Testament): “Mọi con mắt đều sẽ thấy được Ngài”, nói chung nhân loại sẽ nhận biết được Đấng Thiên Khải (the Revealing One). Trong các kỷ nguyên đã qua, Sứ Giả từ chốn Cao Thâm chỉ được một số rất ít người biết được mà thôi, và phải mất nhiều thập niên, đôi khi nhiều thế kỷ thì thông điệp của Ngài mới thấu nhập vào tâm của nhân loại.

Cũng thế, việc nhấn mạnh vào các thời kỳ, và sự phát triển ý thức về sự cân đối, cộng với việc bắt buộc trở lại với cách sống đơn giản và các nhu cầu có thể cứu vãn cho sự thiên khải sắp đến không quá nhanh và mau lẹ chìm vào trong lửa của Đại Ảo Tưởng (fire of the Great Illusion).

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh