Đối Thoại Của Thánh Catarina Sienna: Chương 4. Lòng Thương Xót Của Chúa Quan Phòng P1

ĐỐI THOẠI CỦA THÁNH CATARINA SIENNA: CHƯƠNG 4. LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA QUAN PHÒNG P1

Giải thích về lòng thương xót của Đấng Quan Phòng, đối với ơn cứu độ các linh hồn, ở trường hợp chung và riêng

Bắt đầu khảo luận về sự quan phòng của Thiên Chúa. Trước hết, về sự quan phòng nói chung: trong việc tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa, và trong bí tích bàn thờ nơi Chúa Kitô ban Mình làm lương thực cho ta.

  1. Khi đó, với một lòng nhân hậu vô biên, Đấng Hằng Hữu và Tối Cao đã cúi xuống nhìn linh hồn này bằng cái nhìn khoan dung, như thể để tỏ cho nó thấy: trong mọi sự, không bao giờ Ngài thiếu sự quan phòng cho con người, miễn là con người chấp nhận cách khiêm tốn. Tuy than phiền về các tạo vật của Ngài, Ngài vẫn nói với linh hồn này rằng: con rất yêu dấu của Cha, đúng như Cha đã nói với con cả trăm lần, Cha muốn tỏ lòng thương xót thế gian và cung cấp mọi sự cần thiết cho mọi thụ tạo có lý trí của Nhưng trong sự ngu xuẩn của nó, con người chỉ ham cái chết ngay chỗ có sự sống, và như vậy nó làm hại bản thân nó. Nhưng sự quan phòng của Cha luôn tỉnh thức, và Cha muốn con biết: những gì Cha ban cho con người, đều do sự sắp đặt của ơn quan phòng tối cao này.

Chính sự quan phòng của Cha đã sáng tạo nên con người: khi nhìn vào bản tính Cha, Cha sung sướng vì cái đẹp của vật thụ tạo có lý trí của Cha, khi chúng được tác tạo giống hình ảnh Cha. Cha đã cho nó trí nhớ, để nó ghi lấy các ân huệ

Cha, và được thông dự quyền năng của Cha, là Chúa Cha hằng hữu. Cha đã ban cho nó trí tuệ, để theo sự khôn ngoan của Con Một Cha nó nhận biết và thông hiểu ý muốn của Cha là Đấng ban phát mọi ân sủng. Với một tình yêu như lửa, Cha đã ban cho nó có ý muốn để yêu mến những gì trí tuệ nhìn thấy và nhận biết (Xc số 51). Đó là những gì sự quan phòng dịu hiền của Cha đã làm, để tạo vật của Cha có khả năng hiểu biết Cha và vui hưởng Cha, trong niềm vui phúc kiến Cha muôn đời.

Như Cha đã nói với con nhiều lần (Xc số 21, 26): cửa Trời đã đóng lại do tội Ađam, vì Ađam đã không thấu hiểu phẩm giá của mình, cũng không nhận biết Cha đã tạo thành con người vì tình yêu thương bao la. Ađam đã sa vào tội bất tuân phục, rồi từ bất tuân phục thành ra hư hỏng vì kiêu ngạo, và vì chiều lòng vợ mình, đã theo ý và làm vui lòng vợ hơn là tuân giữ lời truyền của Cha. Dầu không tin những gì Evà nói, nhưng Ađam đã ưng theo lời xúi của vợ, thà bất tuân lệnh Cha chẳng thà làm phiền lòng nàng.

Chính bởi sự bất tuân phục này, mà tất cả mọi tai ương đã đến và đổ trên đầu loài người. Sự bất tuân phục đã chích nọc độc của nó vào các con cháu. Rồi đây, Cha sẽ giải nghĩa cho con về những nguy hiểm của sự nổi loạn này, để giúp con biết những lợi ích của sự vâng phục.

Để thắng sự chết vì bất tuân phục này, Cha đã quyết định ban Ngôi Lời Con Một Cha, cho loài người nhằm cung cấp mọi nhu yếu cho các con, bằng một hành vi khôn ngoan và quan phòng của Cha. Khôn ngoan, là vì sự quan phòng của Cha đã quyết định dùng cái mồi nhân tính của loài người và cái lưỡi câu thần linh của Cha để bất ngờ bắt trói ma quỷ, kẻ không thể biết được ý định của Cha. Ngôi Lời, Đấng Chân Lý của Cha, đã nhập thể và đến tiêu diệt sự dối trá mà nó đã lừa dối con người. Đó là một hành động lớn lao của đức khôn ngoan và sự quan phòng của Cha.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Con rất yêu dấu, con hãy suy rằng: Cha không thể dùng một kế hoạch nào khôn ngoan hơn, là ban cho các con Ngôi Lời Con Một Cha. Cha đã truyền dạy Ngài phải vâng lời, để giải cứu chúng con khỏi nọc độc của tội bất tuân phục, đã làm nhiễm độc cả loài người. Khi đó, Ngài như say sưa tình yêu thương, với đức vâng lời chân thành, Ngài đã chạy tới nhận cái chết ô nhục trên Thập giá; và nhờ cái chết của Ngài, Ngài đã ban cho các con sự sống, không phải bởi sức của nhân tính nơi Ngài, nhưng do thần lực bản tính của Cha, mà sự quan phòng của Cha đã cho kết hợp với bản tính phàm nhân, để đền cái tội con người đã phạm chống lại Cha, là Đấng Tốt Lành vô cùng, nên đòi phải có một sự đền tạ vô cùng. Tính loài người tội lỗi và có cùng, nên đòi phải có một sự đền tạ vô cùng. Tính loài người tội lỗi và có cùng, phải kết hợp với một hữu thể vô cùng thì mới có thể dâng lên Cha một sự đền bù vô cùng, cho tất cả loài người, mọi người đã qua đi, hiện nay và sẽ sinh ra. Cha đã muốn: mỗi khi một người phạm đến Cha, nó có thể dâng lên Cha một sự đền tạ hoàn hảo, khi nó muốn trở về với Cha trong lúc còn sống. Sự có thể đền tạ này được bảo đảm cho các con nhờ thần tính đã kết hợp với nhân tính. Đó là công trình quan phòng của Cha, chính sự quan phòng này đã ấn định để từ một hành vi có cùng là khổ hình Thập giá, các con sẽ lãnh nhận được trong Ngôi Lời của Cha một hoa trái không cùng, do thần lực của thần tính.

Sự quan phòng vĩnh cửu của Cha là Thiên Chúa của con và là Cha của con, đã quyết định mặc lại cho con người cái áo ân sủng sau khi nó bị lột mất chiếc áo vô tội của nó, nghĩa là đã bị tước hết mọi nhân đức, và đang chết đói chết khát trong cuộc lữ hành ở đời này, nơi nó gặp đủ mọi gian truân thử thách. Cửa Thiên Đàng đã đóng lại, con người không còn một chút hy vọng nào nữa, không một chút hy vọng nào có thể ủi an nó trong cảnh khốn cùng này. Nó chìm đắm trong một nỗi ưu sầu mênh mang.

Nhưng Cha là Đấng Quan Phòng tối cao, Cha đã cứu giúp sự nguy khốn đó. Không phải lao công của các con, cũng không phải do nhân đức của các con, nhưng chỉ bởi lòng nhân hậu đã thúc đẩy Cha ban chiếc áo này cho các con, nhờ Ngôi Lời Con Một Cha, Đấng đã thí mạng sống mình để mặc cho các con chiếc áo ân sủng và vô tội (Xc Ga 3:27). Ân sủng này, sự vô tội này, các con nhận được là nhờ thần lực của Máu Thánh trong bí tích Thánh tẩy. Bí tích này rửa cách con sạch vết nhơ của tội tổ tông mà các con mắc phải khi hình thai trong dạ mẹ, và là tội do cha mẹ các con truyền lại cho các con. Cha không dùng một sự đau đớn thân xác, như phép cắt bì trong giao ước cũ, để mang lại sự thanh tẩy này cho các con, nhưng Cha dùng sự dịu dàng của phép Thánh tẩy. Đó là cách Cha đã mặc lại chiếc áo cho con người.

Cha đã sưởi ấm nó, khi Con Một của Cha đã dùng các vết thương trên thân thể Ngài, mà tỏ cho các con thấy lửa của tình xót thương của Cha, vẫn giữ kín cho đến lúc đó, dưới làn tro nhân tính của các con. Như thế, đã đủ sưởi ấm trái tim lạnh giá của con người chưa? Hay là nó còn chai cứng trong đống tội lỗi của nó, còn mù quáng vì tính tự ái, để không nhận biết Cha yêu thương nó bằng một tình thương xót êm ái vô lường.

Sự quan phòng của Cha còn ban cho con người lương thực để bồi dưỡng nó trong cuộc lữ hành trần thế, như Cha đã nói với con ở một chỗ khác. Cha cũng đã làm cho những kẻ thù của nó thành đuối sức, đến nỗi ngoài nó ra, không ai có thể hại được nó. Con đường đã được vạch ra bằng Máu của Đấng Chân Lý của Cha, để nó có thể đi tới cùng và đạt tới đích mà Cha đã sáng tạo nên nó. Lương thực ấy là gì? Cha đã nói với con rồi, đó là Mình và Máu Chúa Kitô chịu đóng đinh, vừa là Thiên Chúa thật vừa là Người thật, Bánh các Thiên Thần và Bánh hằng sống: lương thực này cho kẻ đói được ăn no nê, là Bánh ban nhiều hoan lạc, nhưng kẻ không đói khát sẽ thấy mình trống rỗng. Bởi vì, Bánh này phải được ăn bằng miệng của niềm ước ao thánh thiện và được thưởng thức lòng yêu mến. Vậy, con thấy sự quan phòng của Cha đã sắp đặt mọi sự, để mang sự ủi an đến cho con người.

Trông cậy là một hồng ân của Đấng Quan Phòng; càng trông cậy cách trọn vẹn, người ta càng cảm thấy sự ngọt ngào của ơn quan phòng.

  1. Hơn nữa, Cha đã ban cho con người niềm an ủi của sự cậy trông. Dưới ánh sáng đức tin, nó nhìn vào giá máu đã được trả thay cho nó, nó cảm thấy một niềm cậy trông vững vàng và chắc chắn được ơn cứu độ. Sự nhục nhã của Chúa Kitô chịu đóng đinh đã nên vinh dự cho nó, bởi vì nếu nó dùng các chi thể nó xúc phạm đến Cha, thì đức Kitô, Con rất dịu hiền của Cha, đã cam chịu mọi cực hình đau đớn trên khắp thân thể Ngài. Sự vâng phục của Ngài đã sửa lại sự bất tuân phục của các con, tất cả các con được dự phần vào ân sủng đức vâng phục của Ngài, cũng như tất cả các con đã phạm tội vì bất tuân phục (Xc Rm 5:19).

Đó là những gì sự quan phòng của Cha đã làm cho các con. Từ lúc khởi đầu vũ trụ cho đến hôm nay, sự quan phòng của Cha đã cung cấp những nhu cầu và ban ơn cứu độ cho con người, và sẽ còn lo cho con người mãi tới ngày sau hết, bằng những phương thế vừa nhiều vừa đa dạng, tuỳ theo ý Cha là Thầy Thuốc tốt lành. Cha biết loại thuốc nào hợp với căn bệnh của các con, cần thiết đem lại sức khoẻ tốt cho các con, cùng ngăn ngừa bệnh trở lại. Sự quan phòng của Cha sẽ không bao giờ thiếu cho những ai tìm nương tựa và cậy trông Cha cho phải lẽ. Những kẻ cậy trông vào Cha, gõ cửa và thật tình kêu gọi Cha, không những bằng lời nói, mà còn bằng cả tâm tình, thì dưới ánh sáng đức tin, họ sẽ được hưởng sự quan phòng của Cha; chứ không phải kẻ chỉ gõ cửa và kêu la bằng những lời rỗng tuếch: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” Cha quả quyết với con, nghĩa là sự kêu cầu của chúng không bởi nhân đức, chúng sẽ không gặp được lòng thương xót của Cha, nhưng chỉ nhận được sự công minh mà thôi (Xc Mt 7:21-23; Lc 6:46).

Như Cha đã nói, sự quan phòng của Cha không thiếu cho những kẻ cậy trông Cha; nhưng sự quan phòng đó sẽ ngoảnh mặt đi khỏi những kẻ không tin tưởng vào Cha, mà chỉ tin tưởng vào bản thân chúng. Con biết: người ta không thể đặt sự cậy trông vào hai chủ đối nghịch nhau. Đó là điều Đấng Chân Lý của

Cha đã giảng dạy, khi Ngài nói trong Phúc Âm rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu nó phục vụ chủ này, nó sẽ khinh chê chủ kia” (Lc 16:13). Sự phục vụ giả thiết có hy vọng, người tôi tớ chỉ phục vụ vì trông đợi được thưởng công và được những lợi ích mà nó dự tính sẽ nhận được, hoặc nó mong sẽ làm đẹp lòng chủ nó. Bởi vậy, nó không phục vụ kẻ thù của chủ nó, vì nó biết không được lợi ích gì hết, đồng thời do sự phục vụ này, nó thấy mình mất đi những gì nó trông đợi ở ông chủ.

Con rất yêu dấu của Cha, sự thể như vậy đối với một linh hồn cũng thế. Linh hồn một là phục vụ Cha và đặt sự cậy trông nơi Cha, hai là nó phục vụ thế gian và đặt sự cậy trông nơi thế gian và bản thân nó. Kẻ phục vụ thế gian ngoài Cha, là vì nó muốn phục vụ và yêu thích tính dục của nó, nó mong đợi ở sự yêu thích và phục vụ này một sự khoái lạc, một sự vui sướng, một sự thoả mãn nhục dục. Vì nó đã đặt sự cậy trông vào một sự có cùng, phù phiếm và mau qua, nên nó phải thất vọng vì không nhận được niềm vui mà nó trông mong. Bao lâu còn cậy trông vào bản thân và vào thế gian, nó còn bị lừa dối, bởi vì sự vui thú thế gian và những mơ ước hão huyền của thế gian là điều nó không bao giờ đạt được, và cũng là điều Cha giận ghét. Chúng làm Cha gớm ghét đến nỗi chính vì chúng mà Cha đã muốn Con Một Cha chết cách ô nhục trên Thập giá. Bởi vậy, giữa thế gian và Cha không còn có gì giống nhau nữa: thế gian không giống Cha, Cha cũng không giống thế gian. Trái lại, những kẻ đặt cậy trông vào Cha và phục vụ Cha hết lòng, hết linh hồn, thì đương nhiên họ không còn cậy vào bản thân hay vào thế gian: họ không còn tin tưởng vào sự yếu hèn của mình nữa (Xc Mt 6:25- 34).

Niềm cậy trông đích thực và thánh thiện này có thể hoàn hảo hơn kém, tuỳ mức độ lòng mến yêu Cha, và cũng theo mức độ ấy mà nó được hưởng sự quan phòng của Cha. Những kẻ phục vụ Cha với hy vọng duy nhất là làm vui lòng Cha, sẽ được hưởng nhiều hơn các kẻ còn đi tìm an ủi và niềm vui ở trong Cha.

Những người thứ nhất là các kẻ đạt tới mức hoàn thiện; những người sau nghĩa là những người còn mang hy vọng được phần thưởng và an ủi, thì thuộc về bậc thứ hai và bậc thứ ba, đó là những người bất toàn, mà Cha đã nói với con, khi bàn về những trạng thái khác nhau của linh hồn (Xc số 58-80).

Các kẻ bất toàn cũng như những người hoàn thiện đều được Cha săn sóc: ơn quan phòng của Cha không thiếu cho một ai, miễn là người ta đừng tự kiêu mà đặt cậy trông vào mình. Tự kiêu và đặt cậy trông vào bản thân như thế là do tính tự ái và sẽ làm mờ mắt trí tuệ, làm mất đi ánh sáng đức tin. Khi đó, con người không còn bước theo ánh sáng lý trí, không còn nhận ra sự quan phòng của Cha nữa. Không phải nó không nhận thấy những hiệu quả của ơn quan phòng, bởi vì không một ai, công chính hay tội nhân, đứng ngoài hành động của ơn quan phòng này.

Mọi sự đã được sáng tạo do lòng nhân hậu của Cha. Cha là Đấng Tự Hữu, không có Cha thì không có gì được tạo thành, trừ tội lỗi là cái không hiện hữu. Bởi vậy, những kẻ cậy trông vào mình vẫn nằm trong sự quan phòng thần linh của Cha. Nhưng chúng không hiểu, không nhìn nhận, và bởi không nhìn nhận, nên chúng không mến yêu và không được hưởng hoa trái ân sủng của sự quan phòng. Chúng thấy mọi sự lộn xộn, trong khi mọi sự đều có trật tự, vì chúng mù quáng. Chúng lấy ánh sáng làm bóng tối, và lấy bóng tối làm ánh sáng, bởi chúng đặt sự trông cậy vào chỗ tối tăm, và hành động trong tối tăm. Sự mù quáng này làm chúng hễ mở miệng ra là lẩm bẩm kêu ca, muốn nổi loạn.

Ôi, con rất yêu dấu của Cha, con thấy chúng điên rồ chừng nào! Làm sao chúng có thể tin Cha là Đấng Nhân Hậu vô cùng, lại muốn điều gì khác ngoài lợi ích cho chúng, là nên thánh! Mọi sự Cha cho phép xảy ra mỗi ngày, dù rất nhỏ bé, cũng chỉ vì ơn cứu độ của chúng, khi mà bằng kinh nghiệm qua những việc lớn, họ cũng biết được Cha không muốn gì khác ngoài việc thánh hoá chúng. Cho dầu chúng mù quáng, nhưng chỉ với một chút ánh sáng tự nhiên thôi, chúng cũng có thể nhận ra lòng nhân hậu và ân huệ của sự Cha quan phòng. Chắc chắn chúng phải khám phá ra điều đó trong việc sáng tạo thứ nhất, và trong việc sáng tạo thứ hai nhờ Máu Thánh, khi Cha phục hồi con người bằng ân sủng, như Cha đã nói.

Đó là sự kiện quá rõ ràng, không ai có thể đảo ngược lại được. Thế mà, chúng vẫn nhắm mắt trước sự hiển nhiên này, vì chúng sợ cái bóng của chúng, bởi ánh sáng tự nhiên này đã không được phát triển trong đàng nhân đức. Con người khờ dại không thấy rằng: Cha luôn luôn cung cấp mọi nhu cầu cho thế giới nói chung, và cho từng người nói riêng, tuỳ theo mỗi bậc sống. Và bởi vì ở đời này không có gì cố định, mọi sự biến chuyển không ngừng cho đến khi đạt tới đích đã xếp đặt cho chúng; cho nên sự quan phòng của Cha luôn lo liệu cho mỗi người có được những nhu cầu ở vào những thời gian và hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống.

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã đáp ứng những nhu cầu của con người bằng Luật và qua các ngôn sứ; rồi trong Tân Ước bằng việc sai Ngôi Lời của Ngài, qua các tông đồ, các đấng tử đạo và nhiều vị khác. Không có gì xảy đến cho các vật thụ tạo mà không do Chúa quan phòng.

  1. Trong Cựu Ước, sự quan phòng của Cha đã ban cho Môisen những tấm bia của Luật; và để hướng dẫn dân của Cha, Cha đã sai những ngôn sứ được Chúa Thánh Thần soi sáng (Xc Lc 16:29-31). Trước khi Con của Cha nhập thể, hầu như luôn luôn dân Do Thái có những ngôn sứ, để lời nói linh hứng các ông mang đến cho dân này niềm hy vọng, là sẽ có ngày được thấy Đấng Chân Lý của Cha mặc lấy thân xác phàm nhân, và thấy Đấng Ngôn Sứ của các ngôn sứ đến cứu dân khỏi cảnh nô lệ, nhờ Máu của Ngài, mà mở cửa trời đã đóng lại từ lâu. Nhưng từ khi Ngôi Lời Con Cha đã đến, thì không một ngôn sứ nào nổi lên giữa dân nữa, để nói cho họ biết Đấng mà họ trông đợi đã đến rồi. Dầu vậy, sự cố chấp đã che mắt họ và còn che mắt không cho họ nhận ra Ngài, và từ đó không một ngôn sứ nào được sai đến để loan báo về Ngài, vì Ngài đã đến (Xc Ga 1:10- 11).

Sau các ngôn sứ, sự quan phòng của Cha đã sai Ngôi Lời đến, Ngài làm trung gian giữa Cha và các con. Sau Ngài, các tông đồ, các chứng nhân tử đạo, các đấng hiển tu cũng đến, như Cha đã giải thích cho con ở một nơi khác. Chính sự quan phòng của Cha đã làm nên mọi sự và sẽ cung cấp mọi sự cho đến cùng. Đó là sự quan phòng nói chung của Cha liên hệ đến tất cả mọi thụ tạo có lý trí, khi chúng muốn lãnh nhận những ân ban của Đấng Quan Phòng.

Sự quan phòng của Cha còn lo cho mỗi tạo vật các riêng; chính sự quan phòng này điều hành sự sống và sự chết, cũng như mọi hoàn cảnh liên hệ, như đói khát, mất mùa, trần truồng, nóng lạnh, bất công, khinh chê, sỉ nhục. Tất cả những tai biến này, chính Cha cho phép xảy đến cho con người, cho dù Cha không phải là nguyên nhân tạo nên sự độc ác của kẻ làm điều dữ hay nói lời xỉ vả ai. Hiện hữu và thời giờ, đều là những ơn Cha ban cho con người, và chỉ nhận được từ nơi Cha. Hẳn Cha đã không ban sự hiện hữu và thời giờ, để nó xúc phạm đến Cha hoặc làm hại tha nhân, nhưng để nó thờ lạy Cha với lòng mến yêu, và phục vụ anh em mình với tình yêu thương, Cha chỉ cho phép những tai biến đó xảy ra nhằm tập luyện hoặc làm rạng rỡ đức nhẫn nại nơi người công chính.

Đôi khi, Cha để cho người công chính bị người ta thù ghét; và sau cùng, cái chết của người lành thánh lắm khi làm người ta phải bỡ ngỡ. Họ cho là bất công, khi thấy người công chính chết bất đắc kỳ tử: chết đuối, chết cháy, sét đánh, thú dữ cắn xé, hay bị đè chết vì ngôi nhà của mình sập đổ. Những sự kiện như thế xem ra khó hiểu, đối với kẻ không có ánh sáng đức tin, nhưng lại là việc bình thường đối với những người có niềm tin.

Vì họ có sẵn tâm tình mến yêu mà hiểu biết sự quan phòng của Cha, nên biết ngay chính Cha đã xếp đặt mọi sự với ý định duy nhất là mang ơn cứu độ đến cho con người. Gặp tất cả những tai ương xảy đến, nó cúi đầu kính cẩn. Không có gì làm nó vấp phạm, vì mọi sự xảy ra cho nó, cho tha nhân và trong các việc Cha làm: nó chấp nhận tất cả một cách nhẫn nhục và vững tâm.

Không có một tạo vật nào ở ngoài sự quan phòng của Cha; sự quan phòng thần linh quan tâm và điều hành mọi sự. Đôi khi mưa đá, bão táp hay sét đánh, do Cha cho phép giáng xuống và giết chết một người, người ta thường nghĩ số phận người đó oan nghiệt, trách Cha không lo cho nó sự an toàn, trong khi Cha đã cho phép xảy ra là để cứu linh hồn người ấy khỏi chết đời đời. Con người đã không hiểu được như thế, nên chúng tố cáo Cha! Chúng tìm cách bôi nhọ các công việc của Cha, chúng xét đoán hành động của Cha một cách thiển cận.

Tất cả những gì Thiên Chúa cho phép xảy đến, đều vì lợi ích và vì ơn cứu độ cho chúng ta. Những ai nghĩ ngược lại, là mù quáng và sai lầm.

  1. Con rất yêu dấu của Cha, Cha muốn cho con thấy Cha đã phải kiên nhẫn chừng nào, để chịu đựng các tạo vật Cha đã dựng nên giống hình ảnh Cha, với một tình thương xót lớn lao (Xc Rm 9:22-23). Con hãy mở mắt trí tuệ ra và nhìn thẳng vào Cha đã tỏ bày cho con thấy một trường hợp cá biệt đã xảy ra. Con còn nhớ con đã cầu xin Cha cứu một người, và Cha đã can thiệp cứu nó, và nó hết nguy cơ phải chết. Những gì xảy ra cho trường hợp đặc biệt này, cũng thường xảy ra trong nhiều trường hợp khác.

Khi đó, linh hồn này mở mắt trí tuệ của mình đã được soi sáng bởi ánh sáng đức tin, và nhìn thẳng vào Thiên Chúa uy quyền, với một niềm ước nguyện nồng nhiệt. Bởi vì, những lời nó vừa nghe đã làm cho nó hiểu rõ hơn về chân lý thần thánh, liên quan đến sự quan phòng êm ái của Thiên Chúa. Để vâng lời truyền dạy của Chúa Cha, linh hồn này đã đưa mắt nhìn sâu vào vực thẳm tình thương xót của Ngài. Và nó đã thấy Thiên Chúa là Đấng Nhân Hậu tối cao và hằng hữu, chỉ vì tình thương Ngài đã tác tạo nên chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta bằng Máu của Con Ngài, và lòng thương xót này là nguồn suối hằng tuôn xuống cho chúng ta mọi hồng ân, những thử thách cũng như những ủi an. Mọi sự đều do tình thương, mọi sự đều vì ơn cứu độ cho con người, Thiên Chúa làm mọi sự vì mục đích ấy. Đó là chân lý mà linh hồn này đã khám phá ra trong Máu Thánh, đã đổ ra vì tình thương bao la.

Khi ấy, Chúa Cha hằng hữu và tối cao đã nói với linh hồn ấy rằng: các kẻ vấp phạm và bất nhẫn vì những sự xảy đến cho mình, là mù quáng bởi lòng tự ái. Đây, Cha nói theo cách chung và cách riêng. Cha tiếp tục những gì đã nói với con trên kia. Chúng hiểu theo hướng xấu, chúng nghĩ Cha làm như thế để huỷ hoại chúng, làm hại chúng, vì ghét chúng; trong khi tất cả những gì Cha làm là làm vì thương xót chúng, muốn sự lành cho chúng, muốn cứu chúng khỏi sự tiêu vong và ban cho chúng sự sống muôn đời. Tại sao chúng kêu trách chống lại Cha? Tại vì chúng không đặt niềm trông cậy vào Cha, nhưng nơi bản thân chúng, bởi vậy, mọi sự trở nên tối tăm cho chúng. Chúng không còn hiểu các sự vật như đáng lẽ phải hiểu, chúng chê ghét những sự lẽ ra chúng phải kính trọng, và vì chúng kiêu ngạo, chúng muốn xét đoán những ý định mầu nhiệm của Cha, là những ý định chính trực và công minh. Chúng giống như những người mù, chỉ dùng xúc giác, vị giác, hoặc nghe âm thanh mà đánh giá vẻ đẹp và những khuyết điểm của sự vật, nghĩa là chỉ dựa vào những ấn tượng của mấy giác quan còn lại. Chúng không muốn dựa vào Cha là Ánh Sáng chân thật, là Đấng nuôi dưỡng chúng về tinh thần, và thể chất, là Đấng mà nếu chúng không cậy nhờ, thì chúng không thể làm được gì hết. Khi chúng nhận được sự giúp đỡ nào của một tạo vật, thì chính là vì Cha đã xếp đặt tạo vật đó có tài trí, trí thức, ý muốn và khả năng để giúp đỡ chúng. Những kẻ ngu dốt này chỉ muốn nhìn xem vạn vật bằng cách sờ vào, nhưng xúc giác thường bị lừa dối, vì bàn tay không có ánh sáng, mà chỉ ánh sáng mới cho thấy được các màu sắc. Vị giác cũng bị lừa dối và sai lầm, vì nó không nhìn thấy con ruồi dơ bẩn đã đậu trên thức ăn.Tai nghe cũng có thể bị lừa dối bởi sự ngọt ngào của âm thanh, vì nó không nhìn thấy kẻ ca hát, nếu không cảnh giác mà chỉ tin vào tiếng hát, nó có thể bị đâm chết.

Những kẻ đui mù này cũng hành xử như vậy đó. Chúng đã mất ánh sáng của lý trí, chúng chỉ tin vào những ấn tượng của các giác quan. Chúng giống như những người chỉ biết sờ bằng tay. Những thú vui thế gian xem ra đầy hoan lạc, nhưng vì chúng không xem thấy, nên không biết những lạc thú này giống như những tấm vải ghim đầy gai nhọn: những lạc thú mang lại nhiều rầu rĩ và lo âu, khiến trái tim đam mê của chúng phải thất vọng ê chề.

Những thú vui này xem ra ngọt ngào và khoái cho cái miệng thèm khát chúng. Cha muốn nói đến sự đam mê lạc thú. Sự đam mê làm nó không nhìn thấy những con bọ dơ bẩn lúc nhúc, tức tội trọng, trong linh hồn nó, khiến nó ra dị dạng không còn giống Cha, và làm nó mất đi sự sống ân sủng. Nếu linh hồn này không mở mắt đón nhận ánh sáng đức tin, để được thanh tẩy trong Máu Thánh, những lạc thú kia sẽ dẫn nó đến chỗ diệt vong.

Tính tự ái làm tiếng hát nghe thật du dương gợi cảm, lừa dối linh hồn vốn chạy theo tính dục. Nó buông theo triền dốc nguy hiểm, rơi xuống vực thẳm tội lỗi, tự nạp mình cho kẻ thù. Tính tự ái và sự cậy trông vào bản thân đã làm nó ra mù quáng; nó không trông cậy vào Cha là đường đi cùng là bảng chỉ đường. Đường đi này đã được vạch ra bởi Ngôi Lời Con Cha: “Thầy là Đường Đi, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6) và Ngài cũng “là Ánh Sáng” (Ga 8:12). Ai qua Ngài sẽ không sai lầm, không bước đi trong tối tăm. Không ai đến được với Cha mà không qua Ngài, vì Ngài và Cha là một (Xc Ga 10:30). Như Cha đã nói, Cha đã làm một cây cầu, để các con có thể đến với Cha là cùng đích của các con, một cách chắc chắn. Nhưng biết bao kẻ không tin tưởng vào Cha, mà đi vào con đường khác.

Với một tình thương vô biên, Cha đã ban cho chúng mọi nhu cầu, cho phép nhiều thuận lợi xảy đến với chúng, nhưng chúng luôn luôn vấp phạm vì Cha. Cha đã chịu đựng chúng cách kiên nhẫn và bảo vệ chúng, vì Cha thương yêu chúng, dầu chúng không yêu mến Cha. Trong khi đó, chúng không ngừng chống lại Cha bằng giận dỗi, bằng thù ghét, bằng những lời lẩm bẩm kêu ca và nhiều tội bất trung khác (Xc 1Ga 4:10). Trong ý nghĩ ngu xuẩn này, chúng tính chuyện đoán xét những ý định mầu nhiệm đầy yêu thương và công minh của Cha. Chúng không tự biết mình và không thể xét đoán được gì hết. Mà ai không tự biết mình thì không thể biết Cha và cũng không thể hiểu được những ý định của Cha.

Trong một hoàn cảnh cá biệt, Thiên Chúa đã lo liệu thế nào để cứu vớt một linh hồn.

  1. Con ơi, về sự quan phòng mầu nhiệm của Cha, con có muốn biết thế gian sai lầm chừng nào không? Thì con hãy mở mắt trí tuệ ra và nhìn vào Cha đây: con sẽ thấy một trường hợp cá biệt, mà Cha đã hứa sẽ giải thích cho con. Những gì được nói về trường hợp này, cũng có thể được áp dụng về nhiều trường hợp khác.

Vâng lời Chúa Cha hằng hữu và cao cả, linh hồn này đã dán mắt nhìn Ngài với một niềm ước ao nồng nhiệt. Khi đó, Thiên Chúa hằng hữu tỏ cho nó thấy án phạt của một người, được lấy làm tựa đề cho câu chuyện này đã xảy ra. Ngài nói: Cha muốn con biết, để kéo linh hồn này ra khỏi án phạt đời đời nó đáng phải chịu, Cha đã cho phép xảy ra một tai nạn bất ngờ, để nó dùng máu của mình mà tìm được sự sống trong Máu của Đấng Chân Lý, Con Duy Nhất của Cha.

Cha đã không quên người ấy có lòng sùng kính và yêu mến Đức Maria, Mẹ rất dịu hiền của Con Cha, và theo lòng nhân hậu của Cha, cũng như để tôn kính Ngôi Lời nhập thể, Cha đã ấn định: bất cứ ai, công chính hay tội lỗi, mà chạy đến với Đức Maria với lòng cung kính và mến yêu, sẽ không bao giờ phải hư đi và làm mồi cho quỷ dữ hoả ngục. Mẹ Maria như nam châm, do lòng nhân hậu của Cha đặt ra để thu hút mọi người, nhất là những kẻ tội lỗi.

Vậy, chính lòng thương xót mà Cha đã để xảy ra tai nạn ấy, một tai nạn mà những kẻ bất chính cho là độc ác. Chúng nghĩ thế, vì sự phán đoán của chúng xuất phát từ tính tự ái của chúng: tính tự ái khiến chúng mất đi ánh sáng và ngăn cản không cho chúng nhận ra Đấng Chân Lý của Cha. Nếu chúng đánh tan đám mây mù này đi, chúng sẽ thấy và yêu mến Đấng Chân Lý; chúng sẽ có lòng kính trọng đối với tất cả những gì xảy ra cho chúng, và đến mùa gặt chúng sẽ thu lượm được hoa trái do công lao chúng làm ra.

Con yêu dấu của Cha, về những gì con xin Cha, con hãy chắc chắn: Cha sẽ nhận các ý nguyện của con và của các tôi tớ Cha. Cha là Thiên Chúa của các con, là Thiên Chúa thưởng công xứng đáng tất cả mọi lao nhọc và thực hiện mọi ước nguyện thánh thiện, miễn là người ta thật tình gõ cửa lòng thương xót của Cha; và nhờ ánh sáng đức tin, đừng đi trong lầm lạc nữa, và luôn vững vàng trông cậy vào Đấng Quan Phòng.

Thiên Chúa giải thích về sự quan phòng của Ngài đối với mọi người, và Ngài than phiền về sự bất trung của họ. Trình bày một hình ảnh trong cựu ước có mang tính giáo lý cao đẹp.

  1. Sau khi đã cho con thấy sự quan phòng của Cha trong trường hợp đặc biệt, nay trở lại trường hợp thông thường.

Con không thể tưởng tượng nổi về sự ngu si của con người. Nó đã mất hết hiểu biết, mất hết phán đoán, khi nó đặt niềm cậy trông vào bản thân nó, và tin tưởng vào sự khôn ngoan của mình (Xc Cn 26:12, 28:26). Hỡi ơi, con người điên rồ! Mi không biết rằng chính sự khôn ngoan của mi không phải tự mi mà có! Chính lòng nhân hậu Cha đã ban mọi sự cho mi, đã ban sự khôn ngoan cho mi. Lấy gì làm chứng điều đó? Chính kinh nghiệm của bản thân mi. Biết bao lần mi muốn làm một việc mà không thể làm được, mi không biết cách làm. Rồi khi mi biết, mi lại không thể làm vì không có thời giờ. Rồi nếu mi có thời giờ, mi lại thiếu ý chí.

Tất cả mọi sự đó đều từ Cha mà ra. Tất cả mọi sự đều do sự quan phòng của Cha xếp đặt vì ơn cứu độ cho mi. Sự quan phòng của Cha cho mi thấy bản thân mi là hư vô, và mi có lý do để hạ mình xuống, chứ không phải để lên mặt vênh vang. Trong mọi sự, mi luôn vấp phải những thay đổi và những thiếu hụt, bởi vì mi không là gì cả, bất lực trong mọi sự. Chỉ có ân sủng của Cha là bền vững và tồn tại; tự bản chất, ân sủng không thay đổi và không bị lấy đi khỏi mi. Không ai có quyền tách biệt mi ra khỏi ân sủng và ném mi vào chỗ tội lỗi, chỉ một mình mi có thể thay đổi và đánh mất ân sủng. Vậy làm sao mi có thể ngẩng đầu lên chống lại lòng nhân hậu của Cha? Nếu mi có thể sống theo lý trí, mi có còn làm như thế không? Mi có còn tin cậy vào bản thân mi, và tin tưởng vào sự khôn ngoan của mi không? Phải là một con vật không lý trí mới không nhìn biết rằng: mọi sự đều thay đổi, trừ ân sủng của Cha là Đấng Tạo Hoá của mi? Tại sao mi tin cậy vào bản thân mi? Cha không trung thành và không trung tín với mi sao? Chắc chắn mi không thể không biết điều đó, vì mi kinh nghiệm điều đó mọi ngày.

Ôi, con yêu dấu và rất dịu dàng của Cha, chính con người đã không trung tín trung thành với Cha. Nó đã vi phạm lời truyền dạy của Cha, và sự bất tuân phục đã đẩy nó vào chỗ chết, trong khi ấy Cha vẫn trung thành với nó, Cha vẫn giữ lời, vẫn lo cho nó được những gì mà Cha đã định khi tạo thành nó, vì Cha muốn nó được hạnh phúc tối cao và muôn đời (Xc Tv 145: 13-14).

Để thực hiện ý định này, Cha đã kết hợp thần tính của Cha, sự cao cả uy linh của Cha, với sự thấp hèn của bản tính loài người. Được cứu chuộc và được phục hồi trong ân sủng nhờ thần lực của Máu Con Cha, con người có thể nói nó đã nghiệm thấy sự trung thành của Cha. Vậy mà, xem ra nó vẫn hoài nghi không biết Cha có đủ quyền năng để cứu nó, có đủ sức mạnh để trợ lực và bảo vệ nó chống lại các kẻ thù của nó, có đủ khôn ngoan để soi sáng mắt trí tuệ nó, hoặc có đủ bao dung để ban những gì cần thiết cho ơn cứu độ của nó, hay không. Xem ra nó nghĩ Cha không đủ giàu có để ban của cải cho nó, không đủ xinh đẹp để làm lại vẻ đẹp cho nó. Hay là vì nó sợ Cha không có đủ lương thực để nuôi nó, không có quần áo để che thân nó.

Tất cả cách hành xử của nó cho thấy nó phán đoán và nghi ngờ như vậy. Bởi vì, nếu nó thật sự tin vào Cha, thì sao đức tin của nó lại không sản sinh ra những việc tốt lành và thánh thiện? Vậy mà, mỗi ngày nó vẫn cảm nghiệm Cha mạnh sức: há Cha không phải là sự an toàn cho nó, và bảo vệ nó chống lại các kẻ thù của nó đó sao? Nó cũng thấy rõ không ai có thể chống lại sức mạnh quyền năng của Cha. Mà nếu nó không thấy, đó là vì nó không muốn nhìn.

Chính sự khôn ngoan của Cha đã xếp đặt mọi sự trong thế giới, cai quản thế giới một cách đúng đắn để không có gì sai lệch hay thiếu sót: người ta không thể thêm gì vào đó, cũng như không thể thêm gì hơn nữa cho linh hồn hay thân xác con người. Cha đã lo liệu mọi sự, và ý muốn của các con đã không thể ép nài Cha, bởi vì khi đó chưa có các con. Chính sự khoan dung của Cha đã thúc đẩy Cha tạo thành trời xanh, trái đất với sông biển. Cha đã trải rộng bầu trời nơi các tinh tú vận hành trên đầu các con. Cha đã sáng tạo khí trời để các con hít thở. Cha đã sáng tạo lửa và nước để điều hoà thời tiết, đã sáng tạo mặt trời để các con không phải ở trong đêm tối. Như vậy, mọi sự đã được tạo thành và xếp đặt để đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Trời xanh thì đầy chim choc, trái đất thì phủ đầy hoa trái và nhiều thú vật, sông biển thì phong phú nhiều loại tôm cá, để làm thức ăn cho con người. Như vậy, nơi vạn vật đã tỏ rõ trật tự hoàn hảo của sự quan phòng thần linh.

Sau khi đã tạo thành tất cả những sự vật tuyệt hảo này, Cha đã sáng tạo con người theo hình ảnh Cha và giống Cha, và Cha đã đặt nó vào trong một khu vườn, mà nay vì tội của Ađam đã mọc lên những gai góc; hồi đầu ở đây chỉ có những bông hoa thơm ngátmùi vô tội và thánh thiện. Khi ấy, mọi sự vâng phục con người, nhưng tội bất tuân phục đã đưa sự phản loạn vào trong chính bản thân nó và vào tất cả các tạo vật khác. Cả thế giới rơi vào cảnh hoang vu, con người cũng phải chịu cảnh tang thương đó, vì con người là một thế giới.

Lại một sự can thiệp mới của sự quan phòng kỳ diệu. Cha đã sai Đấng Chân Lý của Cha xuống trần gian: Ngôi Lời nhập thể đã khai phá miền đất hoang vu, đã nhổ sạch gai góc của tội nguyên tổ. Cha đã làm cho chốn này trở thành một khu vườn, được tưới bằng Máu Chúa Kitô chịu đóng đinh, trong vườn này Ngài đã trồng bảy Hồng ân của Chúa Thánh Thần, sau khi đã dọn sạch mọi gai góc của tội trọng. Công việc này đã được hoàn tất không phải trong cuộc đời của con Cha, nhưng sau cái chết của Ngài.

Ý định quan phòng này của Cha đã được báo trước trong Cựu Ước bằng một hình ảnh: khi ngôn sứ Elise được yêu cầu đến, để làm cho một đứa trẻ chết được sống lại (Xc 2V 4:22-35). Elise không đi nhưng sai Giêđi đi và làm như ngôn sứ Êlisê đã dạy, nhưng không làm được cho đứa bé sống lại. Thấy vậy, Êlisê đích thân đến gần đứa bé, nằm úp lên trên nó, đặt tay chân mình lên tay chân nó và thở hơi bảy lần vào miệng nó; đứa bé thở bảy lần, là dấu chỉ nó đã được phục hồi sự sống.

Hình ảnh này cũng đã được gợi lại nơi Maisen, người được Cha sai đi với một cây gậy, truyền cho ông đặt cây gậy trên kẻ chết là nhân loại. Nhưng Luật, mà cây gậy là biểu tượng, đã không hồi phục được sự sống cho nhân loại (Xc Ga 1:17; Rm 3:20). Nên Cha đã sai phái Ngôi Lời Con Một Cha, mà Êlisê là hình ảnh: Ngài đã lấy hình thể đứa bé chết đó bằng cách kết hợp thần tính của Ngài với nhân tính của các con. Bản tính thần linh của Ngài đã thực hiện sự kết hợp này với tất cả các chi thể của Ngài, bằng quyền năng của Cha, bằng sự khôn ngoan của Con Cha và bằng sự khoan dung của Chúa Thánh Thần. Như vậy, là chính Cha, vực thẳm của Thiên Chúa Ba Ngôi, đã thực hiện một giao ước với nhân loại, bằng cách kết hợp thần tính Cha với bản tính con người.

Sau sự kết hợp này, Ngôi Lời đầy tình thương của Cha đã thực hiện một sự kết hợp khác, khi Ngài say sưa yêu thương chạy tới cái chết ô nhục trên Thập giá: trên đó Ngài nằm giang tay ra. Sau sự kết hợp thứ hai này, Ngài đã thông ban cho đứa bé chết bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần bằng cách thở hơi vào miệng linh hồn nó, nghĩa là vào tài năng tâm linh của nó, và giải thoát nó khỏi chết bằng phép Thánh tẩy. Khi đó kẻ chết thở được, đó là dấu sự sống đã được phục hồi cho nó: nó tống khứ ra khỏi mình nó bảy mối tội đầu.

Như vậy, linh hồn con người trở thành một mảnh vườn xanh tươi, với những cây đầy hoa trái ngọt ngào. Nhưng, người làm vườn, tức ý chí tự do, vẫn có thể tuỳ ý vun xới vườn này, hoặc để nó trở lại tình trạng hoang vu. Nó gieo vãi hạt giống xấu xa của tính tự ái, thì bảy mối tội đầu sẽ tràn lan và sẽ sinh ra các thứ tội khác: nó sẽ sớm làm chết ngộp bảy ơn Chúa Thánh Thần và tiêu huỷ mọi nhân đức. Từ nay, nó không còn sức lực nào nữa: nó đã lâm bệnh. Không còn đức tiết độ, không còn sự khôn ngoan, vì nó đã làm mất ánh sáng soi dẫn lý trí. Không còn đức tin, không còn đức trông cậy, không còn sự công chính. Nó không còn tôn trọng pháp luật nữa, nó chỉ cậy dựa vào bản thân nó, và với đức tin đã chết nó chỉ tin vào mình nó. Nó đặt niềm tin tưởng vào các tạo vật, chứ không tin tưởng nơi Cha. Không còn đức ái, không còn lòng đạo đức! Nó quý trọng sự yếu hèn của nó, và tính tự ái này đã phá huỷ mọi sự. Làm sao nó có thể bác ái với tha nhân, vì nó đã trở thành đặc ân đối với bản thân nó! Kìa, nó đã tự làm cho mình mất hết mọi sự tốt lành, và đã rơi vào tai vạ lớn lao, những khủng khiếp của sự chết.

Ai sẽ trả lại sự sống cho nó? Cũng chính là Êlisê, Ngôi Lời nhập thể, Con Một Cha. Bằng cách nào? Bằng cách người làm vườn kia hãy trang bị cho mình bằng sự chê ghét bản thân; nếu không, nó sẽ chẳng tiến hành được chuyện gì hết. Nó hãy nhổ hết gai góc của tội lỗi mình! Rồi với lòng mến yêu, nó hãy mau mắn sống phù hợp với Giáo lý của Đấng Chân Lý nhập thể của Cha! Nó hãy tưới khu vườn của nó bằng Máu Thánh, tức Máu mà vị linh mục đổ trên đầu nó, khi nó xưng tội với tâm hồn thống hối ăn năn vì tội lỗi mình, làm việc đền tội và quyết tâm không xúc phạm đến Cha nữa. Đó là cách con người có thể phục hồi mảnh vườn linh hồn mình, trong cuộc sống đời này. Hết thời gian đó, không còn cách nào để cứu vãn nữa, mọi sự đã xong.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh