Ta Là Cái Đó: Chương 44. Cái Gì Đến Và Đi Thì Không Có Thực Thể

TA LÀ CÁI ĐÓ: CHƯƠNG 44. CÁI GÌ ĐẾN VÀ ĐI THÌ KHÔNG CÓ THỰC THỂ

Hỏi: Tôi đến để được thân cận ông, hơn là nghe ông nói. Những gì nói ra được bằng lời lẽ thì rất ít, còn truyền đạt trong im lặng thì rất nhiều.

Maharaj: Trước tiên là lời lẽ, rồi đến im lặng. Một người cần phải chín mùi mới cảm nhận được sự im lặng.

H: Liệu tôi có thể sống trong im lặng?

M: Việc làm vô vị kỷ đưa đến sự im lặng, vì khi hành động vô vị kỷ ông chẳng cần nhờ đến ai. Vì không màng đến kết quả, ông sẵn sàng hành động với phương tiện thiếu thốn nhất. Ông chẳng cần phải có nhiều năng khiếu và được trang bị đầy đủ. Mà ông cũng chẳng cần được công nhận hay trợ giúp. Ông chỉ làm những gì cần làm, phó mặc thành công và thất bại cho cái không biết, vì mọi chuyện đều được tạo nên bởi vô số yếu tố, mà nỗ lực của ông chỉ là một. Nhưng tâm thức và trái tim con người kỳ diệu đến nỗi cái bất khả vẫn có thể xảy ra một khi ý chí của con người và tình yêu kết hợp với nhau.

H: Khi việc mình làm là xứng đáng thì kêu gọi giúp đỡ có gì là không đúng?

M: Sự cần thiết phải kêu gọi giúp đỡ ở đâu? Nó chỉ chứng tỏ sự yếu đuối và lo âu. Cứ tiếp tục hành động, và cả vũ trụ sẽ cùng hành động với ông. Xét cho cùng thì ý nghĩ làm điều đúng đến với ông từ cái không biết. Cứ phó mặc kết quả cho cái không biết, chỉ cần làm những động tác cần thiết. Ông chỉ là một mắt xích trong chuỗi dài của những tương quan nhân quả. Về cơ bản, tất cả chỉ xảy ra trong tâm. Khi ông hết lòng và kiên quyết làm một cái gì đó thì nó sẽ xảy ra, vì chức năng của tâm là làm cho mọi chuyện xảy ra. Trong thực tại không có gì là vắng thiếu, và không có gì được cần đến; tất cả mọi việc làm chỉ xảy ra trên bề mặt. Tận đáy sâu là sự an lạc hoàn toàn. Tất cả những vấn đề của ông sinh khởi là vì ông đã xác định chính ông và do đó giới hạn chính ông. Khi ông không còn nghĩ rằng ông là thế này, thế nọ thì tất cả mọi xung đột chấm dứt. Mọi cố gắng làm một cái gì đó về những phiền não của ông chắc chắn sẽ thất bại, vì cái gì được tạo ra bởi tham ái chỉ có thể được hóa giải bằng sự thoát ra khỏi tham ái. Ông tự đóng khung trong thời gian và không gian, dồn ép chính ông vào một kiếp sống và thể tích của một thân xác, vì thế ông đã tạo ra không biết bao nhiêu xung đột về sống và chết, lạc thú và đau khổ, hy vọng và sợ hãi. Ông không thể đoạn trừ phiền não mà không từ bỏ mọi ảo tưởng.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

H: Con người thì tự nhiên là hữu hạn.

M: Không hề có cái gì là một con người. Chỉ có những hạn chế và hữu hạn. Tổng hợp tất cả những hạn chế và hữu hạn là định nghĩa về con người. Ông cho rằng ông biết được ông khi ông biết được cái mà ông là. Nhưng ông không bao giờ biết được ông là ai. Con người chỉ có vẻ như là, cũng như khoảng không bên trong cái hũ thì có vẻ có hình dáng, thể tích và mùi của cái hũ. Hãy thấy được rằng ông không phải cái mà ông tin ông là. Hãy dùng tất cả sức lực của ông để chống lại ý tưởng ông là một cái gì có thể đặt tên và mô tả được. Ông không phải cái đó. Từ bỏ lối suy nghĩ cho rằng ông là thế này hay thế nọ. Chẳng có con đường nào khác đưa ông ra khỏi sự khốn khổ mà ông đã tạo ra cho chính ông bằng sự chấp nhận mù quáng, không tra vấn. Đau khổ là một sự kêu gọi để được hiểu, tất cả mọi đau khổ cần phải được tìm hiểu. Đừng lười suy nghĩ.

H: Hành động là cốt lõi của thực tại. Vô hành thì vô hạnh. Cùng với tư duy thì phải làm một cái gì đó.

M: Làm một cái gì đó trong thế gian này thì thật là khó, đừng làm cái gì đó không cần thiết thì lại càng khó hơn.

H: Đối với con người, quan niệm Ta là tất cả có vẻ như bất khả.

M: Ông biết được những gì về chính ông? Ông chỉ có thể là cái mà ông là trong thực tế; ông chỉ có vẻ là cái mà ông không là. Ông chưa bao giờ lìa xa sự toàn hảo. Mọi ý tưởng về sự cải thiện chính mình chỉ mang tính quy ước và ngôn từ. Cũng như mặt trời không biết đến bóng tối, thì cái Ta không hề biết cái không phải cái Ta. Chính tâm, vì biết cái khác, nên trở thành cái khác. Mà tâm không gì khác hơn là cái Ta. Chính cái Ta trở thành cái khác - cái không phải cái Ta - nhưng vẫn là cái Ta. Tất cả những cái khác chỉ là giả. Cũng như một đám mây che khuất mặt trời nhưng không hề ảnh hưởng đến mặt trời thì cái giả có thể ngăn che thực tại nhưng không thể hủy diệt thực tại. Ngay chính cái ý tưởng hủy diệt thực tại tự nó là điều khôi hài; người hủy diệt bao giờ cũng thật hơn là cái bị hủy diệt. Thực tại là người hủy diệt tối hậu. Mọi phân biệt, mọi chia ly và ngăn cách đều sai lầm. Tất cả là một - đây chính là giải pháp tối hậu cho mọi xung đột.

H: Vì sao chúng tôi không tiến bộ mặc dù được rất nhiều trợ lực và chỉ giáo?

M: Chừng nào chúng ta còn tưởng tượng rằng mình là những tính cách cá nhân riêng biệt, khác biệt nhau, thì chúng ta không thể nắm bắt được thực tại, tức là cái thiết yếu phi nhân cách. Trước tiên chúng ta phải biết mình chỉ là nhân chứng, là trung điểm quan sát vô xứ vô thời, tiếp đến là nhận ra được đại dương mênh mông của tánh biết thuần túy, vừa là tâm vừa là vật, và ở ngoài cả hai.

H: Dù cho có ở trong thực tại, tôi vẫn cảm thấy mình là một con người nhỏ bé và riêng biệt, là cái một trong cái nhiều.

M: Ông - một con người - là do ảo tưởng về không gian và thời gian; ông tưởng tượng mình ở vào một điểm nào đó choán một thể tích nào đó; tính cách cá nhân của ông là do ông tự đồng hóa mình với thân xác. Ý nghĩ và cảm thọ của ông tồn tại trong một chuỗi các diễn tiến, kéo dài trong thời gian, làm cho ông tưởng tượng là chính ông, vì có ký ức nên có một khoảng thời gian. Trong thực tế thời gian và không gian tồn tại trong ông; ông không tồn tại trong chúng. Chúng chỉ là những tướng trạng của nhận thức, nhưng chúng không phải là duy nhất. Thời gian và không gian cũng như chữ viết trên giấy; giấy thì thật, chữ viết chỉ là quy ước. Ông bao nhiêu tuổi?

H: Bốn mươi tám!

M: Cái gì khiến ông nói bốn mươi tám? Cái gì khiến ông nói: Tôi ở đây? Những thói quen có tính cách ngôn từ hình thành từ những giả định. Tâm tạo ra thời gian và không gian, rồi cho những gì nó tạo ra là thực tại. Tất cả đều ở đây và bây giờ, nhưng chúng ta không thấy được điều đó. Sự thật là tất cả đều ở trong Ta và bởi Ta. Không còn gì khác. Chính ý nghĩ về “khác” là một thảm họa và bất hạnh.

H: Cái gì là nguyên nhân của sự nhân cách hóa, của sự tự giới hạn trong thời gian và không gian?

M: Cái không tồn tại thì không thể có nguyên nhân. Không hề có cái như một con người riêng biệt. Dù cho theo quan điểm của kinh nghiệm chủ nghĩa, rõ ràng là mỗi một cái đều là nguyên nhân của mỗi một cái, mỗi một cái là như nó là, vì toàn thể vũ trụ là như nó là.

H: Nhưng tính cách con người phải có một nguyên nhân.

M: Tính cách con người hình thành như thế nào? Bởi ký ức. Bởi đồng hóa hiện tại với quá khứ rồi phóng chiếu vào tương lai. Thử nghĩ về chính ông như là cái gì đó thoáng qua, không có quá khứ và tương lai thì tính cách con người của ông biến mất.

H: Thế không phải cái “Ta hiện hữu” còn lại?

M: Từ ngữ “còn lại” không áp dụng được ở đây. “Ta hiện hữu” thì luôn luôn tươi mới. Ông không cần phải nhớ để hiện hữu. Thật vậy, trước khi kinh nghiệm bất cứ gì thì luôn luôn phải có ý thức về sự hiện hữu. Trong hiện tại, hiện hữu của ông bị lẫn lộn với kinh nghiệm. Tất cả những gì ông cần là tháo gỡ hiện hữu ra khỏi mớ bòng bong kinh nghiệm. Một khi đã nhận ra được sự hiện hữu thuần túy của ông, không phải là thế này hay thế nọ thì ông sẽ phân biệt ra nó trong mớ kinh nghiệm, và sẽ không còn bị mê lầm bởi hình tướng và danh xưng.

Tự giới hạn là cốt lõi của tính cách con người.

H: Làm sao tôi trở thành vũ trụ?

M: Ông vũ trụ. Ông không cần và không thể trở thành cái mà ông đã là. Chỉ cần chấm dứt tưởng tượng chính ông là cái cá biệt. Cái gì đến và đi thì không có thực thể. Nó xuất hiện là nhờ có thực tại. Ông biết có thế giới nhưng liệu thế giới có biết ông? Tất cả sự hiểu biết, cũng như tất cả mọi hiện hữu và hỷ lạc, đều từ ông mà ra. Hãy nhận ra rằng ông là cội nguồn vĩnh cửu, và chấp nhận tất cả là của chính ông. Một sự chấp nhận như thế là tình yêu chân thật.

H: Tất cả những gì ông nói nghe rất tốt đẹp nhưng làm sao có thể biến nó thành một lối sống?

M: Chưa bao giờ ra khỏi nhà nhưng ông đã hỏi đường về nhà. Hãy từ bỏ những ý nghĩ sai lầm, tất cả chỉ có thế. Huân tập những ý nghĩ đúng cũng chẳng đưa ông đi đến đâu. Chỉ cần chấm dứt tưởng tượng.

H: Vấn đề không phải là sự chứng đắc, mà là hiểu.

M: Đừng tìm cách hiểu! Chỉ không hiểu sai là đủ. Đừng trông cậy vào tâm để giải thoát. Chính tâm đã đưa ông vào trói buộc. Hãy rốt ráo vượt ra khỏi tâm.

Cái gì không có sự khởi đầu thì không có nguyên nhân. Vấn đề không phải là ông đã biết cái ông là, rồi ông quên nó đi. Một khi biết, ông không thể quên. Vô minh không có sự khởi đầu, nhưng có thể có sự chấm dứt. Chỉ cần hỏi: ai vô minh thì vô minh sẽ tan biến như một giấc chiêm bao. Thế giới đầy những mâu thuẫn, vậy mà ông tìm sự hòa hợp trong thế giới, vì thế giới là sản phẩm của hỗn loạn. Muốn tìm sự an ổn ông phải tìm bên trong. Thế giới chỉ xuất hiện khi nào ông được sinh vào một thân xác. Không có thân - không có thế giới. Trước tiên hãy tìm hiểu xem ông có phải là thân xác hay không. Hiểu về thế giới sẽ đến sau.

H: Những điều ông nói nghe rất thuyết phục, nhưng có ích gì cho một con người riêng biệt, con người đó chỉ biết mình ở trong thế giới và của thế giới?

M: Hàng triệu người ăn bánh mì, nhưng chẳng mấy ai biết về lúa mì. Chỉ những người biết mới có thể làm cho bánh mì ngon hơn. Tương tự như thế, chỉ những ai biết cái Ta, những ai đã nhìn siêu việt thế giới mới có thể làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Côn đức của họ đối với những con người cá thể thật vô lượng, vì họ là nguồn hy vọng cứu vớt duy nhất của các cá nhân. Cái gì ở trong thế giới thì không thể cứu thế giới. Nếu ông thật tình quan tâm cứu giúp thế giới thì ông phải bước ra khỏi nó.

H: Liệu tôi có thể bước ra khỏi thế giới?

M: Ai được sinh ra trước, ông hay thế giới? Chừng nào còn cho rằng thế giới có trước thì ông còn bị ràng buộc bởi thế giới, chừng nào ông nhận ra, không chút nghi hoặc nào, rằng thế giới ở trong ông chứ không phải ông ở trong thế giới thì ông ra khỏi nó. Dĩ nhiên thân xác ông còn ở trong thế giới và của thế giới, nhưng ông không còn bị nó lừa dối. Tất cả mọi kinh điển đều nói rằng trước khi có thế giới thì đã có Tạo hóa. Ai biết Tạo hóa? Người có trước Tạo hóa không ai khác hơn là sự hiện hữu là sự hiện hữu chơn thật của chính ông, nguồn gốc của tất cả thế giới cùng với người tạo ra chúng.

H: Tất cả lý lẽ của ông được gắn bỏ bởi giả thuyết cho rằng thế giới là phóng ảnh của chính ông. Ông công nhận rằng thế giới cá nhân và chủ quan của ông là cái thế giới do các giác quan và tâm đem lại cho ông. Trong ý nghĩa đó, mỗi người chúng ta sống trong một thế giới được hình thành bởi sự phóng chiếu của chính mình. Những thế giới riêng tư này không thể giao tiếp với nhau, chúng nổi lên và biến mất vào cái “Ta hiện hữu” ở tâm điểm của chúng. Nhưng chắc chắn đằng sau những thế giới riêng tư này, phải có một thế giới khách quan chung nhất, mà các thế giới riêng tư chỉ là cái bóng của nó. Ông có phủ nhận sự tồn tại của một thế giới khách quan và chung nhất như thế?

M: Thực tại không phải chủ quan hay khách quan, không phải tâm hay vật, không phải thời gian hay không gian. Những phân chia như thế cần phải có một ai đó - như một trung tâm ý thức tách biệt - để chúng xảy ra với người đó. Nhưng thực tại là tất cả và cũng không là gì cả, nó vừa là cái toàn thể vừa là cái loại trừ, vừa là cái viên mãn vừa là cái trống không, nó hoàn toàn nhất quán, nhưng tuyệt đối nghịch lý. Ông không thể nói về thực tại, ông chỉ có thể mất đi cái Ta của ông trong đó. Khi ông phủ nhận tất cả mọi cái là thực tại thì ông sẽ đến với cái còn lại không thể phủ nhận.

Tất cả mọi luận bàn về giác ngộ chỉ là một biểu hiện của vô minh. Chính tâm tưởng tượng nó không biết rồi mới biết. Thực tại không hay biết gì đến những lập luận quanh co này. Ngay cả cái ý nghĩ cho rằng Thượng đế là Đấng sáng tạo cũng lầm lẫn. Liệu sự hiện hữu của Ta có vì sự hiện hữu khác mà có? Vì Ta hiện hữu, nên tất cả hiện hữu.

H: Làm sao có thể như thế được? Một đứa trẻ được sinh ra vào thế giới, thế giới không thể sinh vào đứa trẻ. Thế giới thì cũ còn đứa trẻ thì mới.

M: Đứa trẻ được sinh vào thế giới của ông. Thế nào, ông được sinh ra vào thế giới, hay thế giới xuất hiện đối với ông? Được sinh ra có nghĩa là tạo nên một thế giới quanh chính ông như một trung tâm. Nhưng có bao giờ ông tạo ra chính ông? Hay có ai đã tạo ra ông? Mỗi người tạo ra một thế giới cho chính mình và sống trong thế giới đó, bị giam cầm trong đó vì sự vô minh của chính mình. Tất cả những gì chúng ta phải làm là phủ nhận nhà tù của chúng ta là thực tại.

H: Cũng như trạng thái thức tồn tại dưới hình thức chủng tử trong lúc ngủ, thì thế giới mà đứa trẻ tạo ra vào lúc chào đời tồn tại trước khi nó được sinh ra. Vậy thì chủng tử thuộc về ai?

M: Nó thuộc về người chứng kiến sinh và tử, nhưng không được sinh ra hay chết đi. Chỉ người đó là chủng tử của sự sáng tạo và cũng là di sản của nó. Đừng bảo tâm xác nhận cái gì siêu vượt nó. Trực tiếp chứng nghiệm là xác nhận duy nhất có giá trị,

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh