Tinh Hoa Các Đạo Giáo: Chương 21. Vũ Trụ Quan (Theo Trung Dung Và Dịch Lý)

TINH HOA CÁC ĐẠO GIÁO: CHƯƠNG 21. VŨ TRỤ QUAN (THEO TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ)

Nho giáo chủ trương: Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. [1] Bản thể đất trời thời duy nhất, nhưng hình tướng bên ngoài thì biến ảo muôn ngàn. (Thể duy nhất, dụng vạn thù).

Đà diễn tiến của vũ trụ như sau:

Vô cực [2] sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, và cứ đà ấy tạo dựng quần sinh vũ trụ.[3]

Nói cách khác:

Trời sinh ánh sáng, ánh sáng sinh từ lực. Từ lực, tức nhị khí âm dương, sẽ tác dụng phối hợp nhau, theo những phương thức khác nhau, để sinh mây gió, nước lưả, núi non, trời đất.

Theo quan niệm trên, thì Vô hình dần dà cô đọng thành Hữu hình, ánh sáng dần dần biến thành thiên hình, vạn trạng.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

SÁCH HAY MỖI NGÀY:

Ngược lại với giáo lý các đạo độc thần (Thiên Chúa Giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo) chủ trương thế giới này đã được dựng nên bởi không (création ex nihilo), Nho giáo chủ trương thuyết sinh hoá (émanation et transformation), nghĩa là vạn hữu đã từ Nhất thể phân thân mà thành, một thuyết sinh hoá đặc biệt, vì hết chu kỳ biến dịch, lại trở về nguyên bản. (Thiên Địa tuần hoàn chung nhi phục thủy. -Nguyên Thủy phản chung). [4] Ta còn gọi đó là Thuyết: Thiên Địa Vạn Vật Nhất Thể.

Thái Cực hay Ánh Sáng Chí Tôn ấy như vừng dương ngự trị giữa hoàn võ, tung tỏa hào quang khắp nơi để duy trì sinh hoá. Đâu có sinh hoá, đấy có Thái Cực. Trong mỗi vi trần, đều có Thái Cực, trong mỗi nhân thân đều có Thái Cực. [5]

Thái cực còn gọi là Trung, vì bất biến, làm khu nữu cho vũ trụ; gọi là Dịch, vì làm cho vạn hữu biến hóa; gọi là Đạo vì là Nguyên Động lực muôn loài...

Từ trước tới nay, ít người hiểu hai chữ Vô Cực, Thái Cực của cổ nhân, nên từ ngữ đã làm chết nghẹt tư tưởng, và vì vậy không tìm ra được điểm tương đồng giữa các học thuyết Âu Á.

Mua đá năng lượng:

Nhưng nếu hiểu Vô Cực là “Trời Ẩn”, Thái Cực là “Trời Hiện”, thì ta sẽ biết ngay Thái Cực chính là Đạo, là Hóa Công, là Tạo Hóa. Như vậy, Vô Cực, Thái cực chỉ là hai phương diện Ẩn Hiện của Hóa Công (Non-Manifestation et Manifestation).

Hai phương diện này làm ta liên tưởng đến Brahman (Vô) và Isvara (Hữu); Nirguna (Vô Tướng = sans qualité), và Saguna (Hữu Tướng = avec qualité) trong kinh Veda của Ấn Độ. [6]

Đó cũng là quan điểm của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh.

“ Hoá Công hồ dễ đặt tên,

Khuôn Thiên hồ dễ mà đem luận bàn.

Không Tên sáng tạo thế gian,

Có Tên là mẹ muôn ngàn thụ sinh.

Tịch nhiên cho thấy oai linh,

Hiển dương cho thấy công trình vân vi.

Hai phương diện, một Hoá Nhi,

Huyền Linh khôn xiết, huyền vi khôn lường.

Ấy là “Chúng diệu chi môn”,

Cửa Thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi. [7]

“Thiên Địa vạn vật nhất thể “ là một học thuyết chung cho nhiều Đạo Giáo. [8]

Theo thuyết này, thì chỉ Tâm Điểm là trường cửu, là duy nhất, còn vạn vật vạn hưũ bên ngoài thì dị biệt biến thiên. Cho nên, nếu nhìn hẹp từng tầng, từng vật, thì thấy mọi sự đều chia phôi, xa lạ, còn nếu nhìn bao quát cả toàn thể, thì thấy mọi sự, mọi vật đều như lá, như cành, như hoa, như quả cùng chung một gốc, và trong những lớp màng, lớp áo, lớp vỏ biến thiên bên ngoài, còn có một tinh hoa trường tồn, vĩnh cửu.

có tầm mắt nhìn bao quát ấy, Trang Tử đã viết:

“Ta và Trời đất cùng sinh,

Ta và muôn vật, sự tình chẳng hai.” [9]

Trang Tử còn chủ trương:

“Nếu nhìn chỗ “dị biệt”, thì thấy gan, mật, như Sở, Việt chia phôi, nếu biết nhìn điểm tương đồng, thì vạn vật đều là một.” [10]

Càng đi ra bên ngoài, càng thấy tôn ti, quí tiện đôi đường cách trở, càng tiến vào bên trong, càng tiến tới chỗ tương đồng. Vào đến Tâm Điểm, đến Đạo, đến Thái Cực, thì hết phân quí tiện, vì vạn vật đều mang Thái Cực. Đó chính là chỗ Tề Vật của Trang Tử.[11]

Theo Alfarabi, một triết gia Ả Rập thời Trung Cổ, thì trong tác phẩm Thần Học (Théologie), Aristote cũng chứng minh sự hiện diện của Duy Nhất trong lòng mọi tạp thù dị biệt. [12]

Áo Nghĩa Thư (Upanishad) chủ trương: dưới những lớp biến thiên, ảo hóa bên ngoài của vũ trụ, có một Bản Thể duy nhất: đó là Tuyệt Đối thể, là Brahman, hay Atman căn nguyên của vũ trụ, và chân tâm của con người.[13]

...”Như nhện chăng tơ, như lửa sinh tàn, tự Chân Tâm cũng phát xuất ra mọi nguồn sinh lực, mọi vũ trụ, mọi thần minh, mọi vạn hữu...”[14]

Sách Zohar, một sách Huyền Học Do Thái cũng đồng quan điểm như vậy, khi chủ trương:

“Thượng đế là Trung Điểm, vạn hữu bao bọc chung quanh, thành nhiều vòng, hay nhiều thế giới đồng tâm.

Thượng đế phát huy ra vũ trụ, nên sự phát triển của vũ trụ tiến từ tầng trong ra tới tầng ngoài, và vô hạn giáng phàm dần tới hữu hạn...Trong là Thượng giới, ngoài là Hạ giới; trong cùng là tinh thần, ngoài cùng là vật chất, vòng ngoài bao bọc, hỗ trợ vòng trong như vỏ, như cùi bảo vệ cho nhân, cho hạt...[15]

Kinh Hoa Nghiêm, theo Đào Hư Tử, cũng chủ trương:

Vạn lý đều do một Tính mà phát xuất ra.[16]

Kinh Lăng Nghiêm viết: Các Pháp đều do tâm biến hiện.[17]

Vũ Trụ quan này đưa đến những kết quả sau:

1.Trời, người tương quan mật thiết với nhau: Trời là Nhân, người là quả, là vỏ bọc. [18]

2.Trời bất biến, người biến thiên. Đã biến thiên thì không vĩnh cưủ. Vậy con người muốn vĩnh cửu, muốn trường sinh bất tử, phải kết hợp với Trời, Nhân Tâm phải kết hợp với Đạo Tâm. Trường sinh bất tử không phải là một dữ kiện (Fait), mà là một công trình phải thực hiện (oeuvre à réaliser).

Thực ra, Cựu Ước cũng chủ trương:

“ Sự kết hợp với đức Minh Triết đưa ta đến chỗ bất diệt.”[19].

Thế là:

Dục cầu nhân bất tử,

Tu tầm bất tử Nhân.[20]

Dịch:

“Muốn cho người được trường sinh,

Phải tìm ra đấng huyền linh trường tồn.”

3.Trời ví như căn bản, nguồn gốc; nhân loại, quần sinh, ví như những cành lá (mạt), những dòng sông (lưu). Trời là Thể (Essence), nhân loại quần sinh là những hiện tượng (phénomènes), những ứng dụng bên ngoài (dụng = Services). Trời thì vi ẩn; nhân loại, quần sinh thì hiển hiện, nhưng đôi bên đều mật thiết tương quan với nhau.

Chu Hi viết:

Thể dụng nhất nguyên, hiển vi vô gián

體 用 一 源, 顯 微 無 間

<p class="FootnoteReference" "="" style="text-indent: 0.5in; font-family: "Arial Unicode MS"; font-size: medium; font-style: italic; line-height: 24px; text-align: justify; margin-left: 50px; margin-top: 6px; margin-bottom: 0px; color: rgb(0, 0, 0); font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: 400; letter-spacing: normal; orphans: 2; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-text-stroke-width: 0px; background-color: rgb(255, 255, 255); text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial;"> <p class="MsoNormal" "="" style="color: rgb(0, 0, 0); font-family: "Times New Roman"; font-size: medium; font-style: normal; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: 400; letter-spacing: normal; orphans: 2; text-align: -webkit-center; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-text-stroke-width: 0px; background-color: rgb(255, 255, 255); text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial;">Dịch:<p class="MsoNormal" "="" style="color: rgb(0, 0, 0); font-family: "Times New Roman"; font-size: medium; font-style: normal; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: 400; letter-spacing: normal; orphans: 2; text-align: -webkit-center; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-text-stroke-width: 0px; background-color: rgb(255, 255, 255); text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial;">

Thể với Dụng đều chung gốc rễ,

Hiển cùng vi khôn nhẽ chia phôi. [21]

4.Đi từ Trời xuống quần sinh, vũ tru, từ tinh thần ra vật chất là trụy lạc, là thoái hóa, nhưng cũng là tạo tác. Đi từ quần sinh vũ trụ lên tới Trời, từ vật chất về tinh thần là siêu thoát, là tiến hóa, là thần thánh hoá bản thân. Đó là Bí quyết “Qui Nguyên, phản Bản” “Trở về gốc, quay về nguồn”, [22] hay “Âm Dương điên đảo” [23] của người xưa.

5.Như vậy, sự tạo dựng trong vũ trụ chưa chấm dứt, bao lâu còn biến thiên, bấy lâu còn tạo dựng. Bao lâu con người còn cần tu luyện, thì bấy lâu lò cừ Tạo hoá còn chưa ngừng công việc được.

6.Vũ trụ quan trên xây nền tảng cho cả một hệ thống đạo lý và siêu hình học.Chỉ có Đạo, có Thái Cực, có Tuyệt Đối mới là nguồn mạch sự sống, là chân lý bất biến, là điểm hội tụ tối hậu cho nhân loại, còn các hiện tượng, hình danh, sắc tướng bên ngoài đều là tuồng biến thiên, ảo hóa.Muốn trở nên Thánh, Hiền, Tiên, Phật, muốn trường sinh, bất tử, điều kiện tiên quyết là phải biết “ võng tượng”, lìa bỏ các hiện tượng, các hình ảnh; theo Trung Đạo, “dữ Đạo hợp Chân”, cho tâm thần đạt tới và sống trong Tuyệt Đối Thể.[24] Các Hiền Thánh xưa đều muốn qui vạn thù về một mối, cho các trào lưu tư tưởng, ước mơ chảy ngược dòng để đổ về lại căn nguyên, đều muốn sống hòa đồng với Tuyệt Đối Thể, đều muốn không còn cái “ mình”, cái “ta” nhỏ nhoi, ti tiện nữa, lấy phương châm “Vô Ngã” làm mục đích tối hậu cho công phu tu luyện.[25]

7Vũ trụ quan trên cho thấy tại sao con người phải tiến tới Vô Ngã, phải hòa đồng với Đạo, với Trời, mới được trường sinh, bất tử, mới mong tiến tới Đại Đồng (universalité) [26].

Lý do rất là giản dị: Vì chỉ có Bản Thể mới vĩnh cửu, còn hiện tượng ứng dụng thì biến thiên theo thời, khi còn, khi mất, thăng trầm, chất chưởng. Đằng khác, Thái Cực là toàn thể, quần sinh là phân số, là bộ phận, cho nên muốn tiến tới Đại Đồng (Universalité), phải tiến tới toàn thể. Theo Nho giáo, thánh nhân cần phải có độ lượng tâm hồn mênh mông bằng tầm thước vũ truï, nghĩa là phải biết trút bỏ hết mọi giới hạn, màu da, sắc áo, lối đường tư tưởng riêng biệt, gạt bỏ hết mọi nhỏ nhen, ti tiện, để tiến tới công chính, cao đại, tôn quí.[27]

8.Tìm Trời tìm Đạo phải tìm trong đáy lòng.

Cổ nhân gọi đó là “ Hồi Tâm Phản Tỉnh” hay “Phản Thân nhi thành” [28]. Và các phương pháp tham thiền, nhập định, (contemplation, concentration et extase) cũng cốt là để kết hợp với đấng Tối Cao. [29]

  1. Biết được Trời lồng trong tâm khảm, để làm khuôn phép mẫu mực, làm căn cốt cho tâm hồn, tức là thấu triệt nghĩa lý, là hiểu biết tới căn để. Đó là Cách vật, trí tri theo Đại học.

“Dày công học vấn sẽ hay Khuôn Trời,

Hay Khuôn Trời ắt thôi thấu triệt.

Thấu triệt rồi ý thiệt lòng ngay,

Lòng ngay, ta sẽ hóa hay...” [30]

Đó là cái hiểu biết cao siêu nhất của nhân loại. [31]

10.Trở về với Trời, với Đạo, với Thái Cực tức là thông suốt nhẽ huyền vi: “Tạo hoá qui Trung chi diệu.” [32]

Công trình này người xưa gọi là:

Kiến tố bão phác

見 素 抱 樸。[33]

Qui Nguyên phục Mệnh.

歸 元 復 命。

Phục qui Đạo

復 歸 道 [34]

Phục qui Anh Nhi

復 歸 嬰 兒。[35]

Phục quy Vô Cực

復 歸 無 極。[36]

Phản kỳ Chân

反 其 真。[37]

Phục kỳ bản

復 其 本。

Qui nguyên phản bản

歸 元 返 本。[38]

Dữ Đạo hợp Chân

與 道 合 真。

Toản thốc ngũ hành

攢 簇 五 行

Hội hợp Bát quái

會 合 八 卦。

Tam hoa qui đỉnh

三 華 歸 頂。

Ngũ khí triều nguyên

五 氣 朝 元。[39]

Minh bạch nhập tố

明 白 入 素。[40]

Vô vi phục phác

無 為 復 扑。 [41]

Thể Tính bão Thần

體 性 抱 神

Trở về với Trời, kết hợp với Trời là đạt Đạo, đạt đích (chí Nhân), là trở thành Con Người Thật (Chân Nhân). Đó là Thung Dung Trung Đạo.[42]

Theo Vũ Trụ Quan trên thì Vạn Vật do Trời sinh, dù phiêu lãng mấy trên trùng dương thời khắc, chung qui cũng vẫn phải trở về với Trời, với Đạo.[43]

Con người theo một qui luật như vũ trụ, nên trước sau cũng phải về với Đấng Tối Cao. [44]

Trung Dung là cứu cánh con đường đó. Đạt đạo Trung Dung sẽ trường sinh vĩnh cửu. Thanh Tĩnh Kinh giải thích vĩnh cửu, trường tồn là Trung Dung. (Thường giả, Trung Dung dã)[45]. Người Âu Châu thường công kích quan niệm trên và cho là “ phiếm thần chủ nghĩa.”

Nhưng thay vì bàn cãi suông, nếu ta dở Thánh Kinh, nếu ta khảo sát giáo lý, hay nghiên cứu tư tưởng các thánh hiền Thiên Chúa Giáo, ta sẽ thấy những chủ trương tương tự.

Các Hiền thánh Thiên Chúa Giáo cũng tin:

  1. Thượng đế ở khắp nơi. (Omniprésence de Dieu)
  2. Vạn vật đều do Ngôi Hai sáng tạo.[46]
  3. Con người là dòng dõi Thượng Đế, [47] có thể thông phần Bản thể với Thượng Đế.[48]
  4. Nước Trời ở đáy lòng .[49]
  5. Vinh quang Trời ở trong lòng nhân loại. [50] Hơn thế nữa, vài vị Đại Thánh còn nhận:
  6. Trời là Bản Thể muôn loài. [51]

Vả lại, đã chấp nhận Thượng đế ở khắp nơi, sao lại không dám nghĩ Thượng Đề có ở đáy lòng nhân loại? Nếu đã chấp nhận nước Trời ở đáy lòng, thì Trời ở đâu nếu không phải ở đáy lòng nhân loại?

Nếu Trời đã ở ngay trong thâm tâm nhân loại, thì tìm Đạo, tìm Trời phải tìm ở đáy lòng, tìm trong suy tư, thầm lặng, hay phải tìm Trời, tìm Đạo trong những tiếng kèn, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng hát bên ngoài?

Và thế nào là người đạo hạnh, nếu không phải là người có Thiên Chúa hiện diện đáy lòng, và không còn ước mơ ngoại cảnh. [52]

Một khi đã xác định Trời ở đáy lòng, nước Trời ở đáy lòng, thì sự siêu thoát chắc chắn phải được thực hiện bằng sự thông suốt điều huyền nhiệm đó, và bằng những công cuộc tu luyện tâm thần, tham thiền, nhập định, diệt dục,vong ngã, để kết hợp với đấng Tối Cao.

Suy ra, thì Thượng giới ở ngay trong tâm hồn ta, mà hạ giới chính là thế gian ở ngoài ta. Càng tiến ra bên ngoài, là càng đi vào tục lụy, càng bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, không gian và thời gian. Càng tiến vào bên trong, là càng thoát vòng kiềm tỏa của vật chất, của ngoại cảnh...cho nên, muốn khinh khoát, tự do, cần phải có một đời sống nội tâm rồi rào, phong phú. [53]

Từ Vô Cực, Thái Cực biến hóa xuống dần tới vạn hữu, là từ cao siêu, đi dần xuống tới ti tiện, là bước dần xuống các nấc thang giá trị, cho tới kỳ cùng. Đi từ vạn hữu trở về Thái Cực, Vô Cực là tiến từ ti tiểu tới cao đại, là bước dần lên các nấc thang giá trị, cho tới hoàn hảo siêu việt.[54] Đó là nhẽ tồn vong, thăng trầm của vũ trụ.

Nhưng vì Vô Cực, Thái Cực ở ngay trong đáy lòng con người, nên nếu cứ để cho tâm hồn tản lạc, phá tán, theo các hiện tượng bên ngoài, thì sẽ đi đến chỗ trụy lạc, tan rã; còn nếu biết đi trở ngược, từ hiện tượng nhận ra tâm hồn, thần trí, Thái Cực, Vô Cực tiềm ẩn trong đáy lòng, thì sẽ tìm ra được con đường siêu thoát. [55]

Vũ trụ quan trên, cũng như toàn bộ Trung Dung, và Kinh Dịch, chẳng qua cốt dạy con người đâu là nguồn mạch của mình, cũng như đâu là quê hương cùng đích của mình...

Theo Vũ Trụ quan trên thì không gian và thời gian cũng biến động, cũng co giãn khôn lường. Càng đi sâu vào nội tâm, càng đi sâu vào tầng trong, thì không gian, và thời gian càng co lại, tưởng chừng đi đến không điểm (le Cinq ou le Zéro métaphysico-mathématique)[56], mà kỳ thực lại tiến tới vĩnh cửu, trường tồn. Càng tiến ra bên ngoài thì không gian và thời gian càng giãn ra, dài ra, tưởng chừng tiến tới vô cùng, mà kỳ thực là tiến tới phù du, hư ảo; cho nên một giây phút trong tâm thần có thể tương đương với mấy nghìn vạn năm bên ngoài. Tinh Thần cũng vì thế có thể nói được không tương lai, và dĩ vãng, hằng cửu, bất biến. Cho nên một cuộc đời vật chất bên ngoài, nghĩ đi, nghĩ lại cũng chỉ nhanh như một giấc mộng.

“Bôn ba đời nghĩ buồn rầu,

Hư không giấc mộng đêm thâu, thấy gì.

Vô thường muôn việc bỏ đi,

Kíp hồi đầu lại kẻo khi ngỡ ngàng”.[57]

Vũ trụ quan trên có thể nói được là một quan niệm chính xác về vũ trụ, vì nó bộc lộ huyền cơ tạo hoá, quán thâu nhẽ biến hằng của đất Trời, toát lược lịch sử nhân quần vũ trụ, cũng như phác hoạ cơ cấu nhân quần vũ trụ bằng một tâm điểm và một vòng tròn, bằng một chữ Trung và một chữ Dịch.

Mới hay Trung DungKinh Dịch chủ trương dạy người một môn học cao siêu, có mục phiêu là “ Thấu suốt Bản Tính và Định Mệnh “ mình, để chung cuộc sẽ được kết hợp với Trời với Đạo. [58]

Thâm ý của Thánh hiền là làm sao cho mọi người, kẻ trước, người sau, ai ai cũng có thể đạt được Trung Điểm, đạt được “Thái Cực”, “Chí cực”, “Vô Danh khả danh”. [59]

Theo Dịch Kinh, khi người quân tử đã am tường Trung Cung, Trung Điểm, khi Bản Thể đã ở đúng ngôi vị của nó, -nói cách khác, khi con người đã đạt tới Thiên Vị, đã kết hợp được với Trời,-[60] thì bao nhiêu sự tốt tươi, đẹp đẽ từ đáy thẳm, lòng sâu tâm hồn sẽ tung tỏa ra khắp cơ thể, sẽ thấm nhuần khắp tứ chi, sẽ chói lọi trong sự nghiệp. Thật là đẹp đẽ đến tuyệt vời vậy.[61]

Nhưng con người muốn trở về Trung Cung, Trung Điểm, muốn được thông tuệ, diệu minh, cần biết suy tư vì có suy tư mới biết huyền cơ Tạo Hoá, mới có thể thần thánh hóa mình, và trở nên hoàn thiện được.[62]

Cao đại thay là căn nguyên con người, trọng vọng thay là định mệnh con người, Đẹp đẽ thay là công phu tu luyện của con người.

Còn gì làm cho ta sung sướng hơn là cảm thấy Trời ngay trong lòng, là nguồn sống và là cùng đích mình; có thần trí thông minh để nhận ra chân lý đó; có thời gian, không gian và vạn hữu làm phương tiện cho công phu, tu luyện ; tu luyện để nên hoàn thiện như Trời, để rồi ra được kết hợp với Trời, thông phần bản tính và vinh quang Trời, trường sinh vĩnh cửu cùng Trời đất.[63]

Tóm lại vũ trụ quan trên đây là kết tinh của một nền học vấn cao siêu, tương truyền từ Đông sang Tây.

Nhờ vũ trụ quan này mà các hiền thánh muôn đời đã dược “ khai quang, điểm nhãn” [64] dùng mắt tinh thần nhìn nhận ra Thượng Đế ở khắp nơi, và thấy mình sống trong vinh quang Thượng Đế. [65]

Gẫm cho cùng thì:

Muôn loài sinh hoá đa đoan,

Rồi ra cũng phải lai hoàn Bản Nguyên.

Hoàn Bản Nguyên an nhiên phục mệnh,

Phục Mệnh rồi trường vĩnh vô cùng. [66]

Cổ nhân vì vậy dùng Tâm Điểm của vòng Dịch để tượng trưng cho Trời vừa là căn bản của vũ trụ, vừa là mục đích tối hậu của công cuộc tu luyện, tiến hoá của quần sinh, vũ trụ.

Cho nên Trung Dung chí cao chí đại vì đưa con người đến vinh quang tuyệt đối. Phải mở tầm mắt, phải mở tầm tâm hồn cho rộng rãi vô biên thì mới tìm ra được Điểm Trung. [67]

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh