Ta Là Cái Đó: Chương 97. Thoát Khỏi Sự Đồng Hóa Chính Mình

TA LÀ CÁI ĐÓ: CHƯƠNG 97. THOÁT KHỎI SỰ ĐỒNG HÓA CHÍNH MÌNH

Maharaj: Ông ngồi trên nền nhà được chứ? Ông cần gối lót không? Ông có điều gì muốn hỏi. Nếu không hỏi, ông có thể giữ im lặng. Hiện hữu, chỉ hiện hữu là quan trọng. Ông không cần hỏi, hay làm gì. Tiêu dao thời gian một cách lười biếng hiển nhiên như kiểu này rất được coi trọng ở Ấn Độ. Điều đó có nghĩa là ông hiện không bị ám ảnh bởi “cái gì kế tiếp”. Khi ông không vội vã, và tâm không còn lo lắng thì nó trở nên an tịnh, và trong sự im lặng một cái gì đó có thể được nghe, mà thường thì quá tinh vi và vi tế để có thể nhận thức được. Tâm phải rộng mở và tĩnh lặng để nghe. Điều chúng ta đang tìm cách làm ở đây là đặt tâm vào trạng thái đúng để hiểu cái gì là thật.

H: Chúng tôi buông bỏ mọi lo lắng bằng cách nào?

M: Ông chẳng cần bận tâm đến những lo lắng của ông. Chỉ hiện hữu. Đừng cố tìm cách tĩnh lặng; đừng biến “giữ im lặng” thành một công việc để thực hiện. Đừng nôn nóng để “giữ im lặng”, và cũng đừng khổ sở để “được hạnh phúc”. Chỉ biết rõ là ông hiện hữu và duy trì trạng thái đó. Đừng bảo: “Được rồi, Ta hiện hữu, kế tiếp là gì?” Trong cái “Ta hiện hữu” không có gì kế tiếp. Đó là một trạng thái phi thời.

H: Nếu nó là một trạng thái phi thời thì bằng cách này hay cách khác nó sẽ tự khẳng định.

M: Ông là cái ông là, bất kể thời gian, nhưng liệu có ích gì cho ông nếu ông không biết điều đó và không theo đó để hành động? Bình bát của ông có thể là bằng vàng ròng, nhưng nếu không biết điều đó, ông vẫn là kẻ xin ăn. Ông phải biết giá trị nội tại của ông, tin tưởng giá trị đó, và thể hiện nó trong sự buông bỏ tham ái và lo sợ hàng ngày.

H: Nếu tôi biết chính tôi, liệu tôi sẽ không còn tham ái và lo sợ?

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

M: Dù cho ông đã có cái nhìn mới nhưng những thói quen của tâm sẽ còn lảng vảng một thời gian, thói quen mong chờ cái biết quá khứ, lo sợ cái không biết tương lai. Bao giờ ông còn có đủ mọi ý tưởng về chính ông thì ông chỉ biết ông qua lớp màn mỏng đan dệt bằng những ý tưởng đó. Để biết chính ông như ông là, ông phải buông bỏ tất cả mọi ý tưởng. Ông không thể nghĩ tưởng ra mùi vị của nước nguyên chất mà chỉ có thể biết được nước nguyên chất bằng cách loại bỏ tất cả mùi vị ra khỏi nước.

Bao giờ còn mải mê với lối sống hiện tại của ông thì ông không thể buông bỏ nó. Sự phát hiện không thể xảy ra chừng nào ông còn bám víu vào cái quen thuộc. Chỉ khi nào nhận ra trọn vẹn nỗi đau khổ vô biên của cuộc đời và nổi loạn chống lại nó thì lúc đó lối thoát mới được tìm ra.

H: Bây giờ tôi có thể thấy được bí mật của cuộc sống vĩnh cửu là ở trong bao chiều này của sự tồn tại, mà Ấn Độ luôn luôn là người canh giữ.

M: Đó là sự bí mật công khai và luôn luôn có người sẵn lòng và sẵn sàng chia sẻ. Đạo sư thì rất nhiều, nhưng môn đồ gan dạ thì chẳng có bao nhiêu.

H: Tôi rất sẵn sàng học hỏi.

M: Học từ chương thì chưa đủ. Ông có thể biết lý thuyết, nhưng nếu không đích thân chứng nghiệm chính ông như một trung tâm của sự hiện hữu phi nhân cách và tuyệt đối, của tình yêu và cực lạc, thì kiến thức từ chương chỉ là vô ích.

H: Vậy tôi phải làm gì?

M: Tìm cách hiện hữu, chỉ hiện hữu. Từ ngữ quan trọng hơn cả là “tìm cách”. Mỗi ngày dành thời gian tĩnh tọa, và tìm cách, chỉ tìm cách, vượt ra ngoài tính cách con người với những tập nhiễm và ám ảnh của nó. Đừng hỏi bằng cách nào vì không thể giải thích được. Ông chỉ tiếp tục tìm cách cho đến khi thành công. Nếu kiên trì thì không thể thất bại. Điều quan trọng tối hậu là sự chân thành và lòng thành khẩn. Chắc chắn ông đã chán ngấy làm con người mà ông là, bây giờ đã đến lúc ông thấy được sự cần thiết cấp bách phải thoát khỏi sự đồng hóa chính mình với một mớ ký ức và thói quen. Thái độ kiên quyết chống lại những cái không cần thiết đó là bí quyết để thành công.

Xét cho cùng, ông là cái ông hiện hữu trong từng khoảnh khắc của đời ông, nhưng ông không bao giờ biết điều đó, ngoại trừ, có lẽ, chỉ vào lúc ông vừa mới ngủ dậy. Tất cả những gì ông cần là biết rõ sự hiện hữu, không phải như một phát biểu bằng ngôn từ, mà là một thực tế thường tại. Biết được ông hiện hữu sẽ cho ông thấy cái ông . Tất cả rất đơn giản. Trước tiên, tạo ra một sự tiếp xúc thường xuyên với chính ông, luôn luôn ở với chính ông. Tất cả phước báu đều tuôn chảy vào sự biết rõ chính mình. Bắt đầu bằng cách là một trung tâm quan sát, nhận thức chủ định, rồi triển khai thành một trung tâm của tình yêu trong hành động. “Ta hiện hữu” là một hạt giống nhỏ bé nhưng sẽ phát triển thành một đại thụ là điều rất tự nhiên mà không có dấu vết nào của sự cố gắng.

H: Tôi thấy trong tôi có nhiều xấu xa. Tôi không cần phải thay đổi hay sao?

M: Xấu xa chỉ là cái bóng của sự mất tỉnh thức. Trong ánh sáng của sự tỉnh thức, nó sẽ héo tàn và rơi rụng.

Mọi tùy thuộc vào người khác đều vô ích, vì cái gì người khác có thể cho thì người khác có thể lấy đi. Chỉ cái gì là của ông vào lúc đầu mới là của ông vào lúc cuối. Không chấp nhận bất cứ hướng dẫn nào, ngoại trừ từ bên trong, và, đến lúc đó ông còn phải từ bỏ tất cả ký ức vì chính ký ức sẽ lừa dối ông. Dù cho ông không biết gì về cách thức và phương tiện thì cứ vẫn giữ im lặng và nhìn vào trong; sự chỉ dẫn chắc chắn sẽ đến. Ông không bao giờ bị bỏ rơi và không biết bước kế tiếp sẽ là gì. Vấn đề là ông có thể trốn tránh bước kế tiếp. Đạo sư luôn luôn có đó để cho ông can đảm qua kinh nghiệm và thành công của chính Đạo sư. Nhưng chỉ những gì ông tìm ra bằng chính sự tỉnh thức của ông, bằng nỗ lực của chính ông thì mới vĩnh viễn thuộc quyền sử dụng của ông.

Nên nhớ rằng, không gì ông có thể nhận thức được lại là của chính ông. Không có gì đến với ông từ bên ngoài là giá trị; chỉ có sự nhận thức và hiểu biết của chính ông mới quan trọng và mang tính khám phá. Ngôn từ, dù nghe hay đọc, chỉ tạo ra những hình ảnh trong tâm, nhưng ông không phải là một hình ảnh của tâm. Ông là khả năng nhận thức và hành động ở đằng sau và bên ngoài hình ảnh.

H: Có vẻ như ông khuyên tôi hướng ngã đến độ vị kỷ. Thậm chí tôi không được quan tâm đến người khác hay sao?

M: Sự quan tâm đến người khác của ông mới là vị kỷ, tự tư tự lợi và hướng ngã. Ông chẳng hề quan tâm đến người khác vì họ là những con người mà chỉ vì họ làm cho hình ảnh ông có về chính ông thêm phong phú và cao thượng. Và điều chủ yếu trong sự vị kỷ là chỉ quan tâm đến sự bảo vệ, bảo tồn thân tướng của mình và làm cho thân tướng đó ngày càng sinh sôi nảy nở. Ta muốn nói thân tướng là tất cả những gì liên quan đến danh xưng và hình tướng của ông - gia đình, bộ tộc, đất nước và chủng tộc của ông. Ràng buộc với danh xưng và hình tướng của riêng mình là vị kỷ. Người nào biết mình không phải là thân hay tâm thì không thể nào vị kỷ, vì người đó không có gì để vị kỷ. Hoặc, ông có thể cho rằng người đó “vị kỷ” nhân danh bất cứ ai người đó gặp, vì sự an sinh của mọi người là chính sự an sinh của người đó. Nhận thức “Ta là thế giới, thế giới là chính Ta” trở nên rất tự nhiên, và, một khi nhận thức được như thế thì không thể nào vị kỷ. Vị kỷ có nghĩa là thèm muốn, chiếm hữu, tích lũy, nhân danh một phần đối với toàn thể.

H: Một người có thể có rất nhiều của cải do thừa kế, hay hôn nhân, hoặc do may mắn.

M: Nhưng nếu không giữ thật chắc thì người khác sẽ chiếm đoạt của ông.

H: Trong trạng thái hiện nay của ông, ông có thể yêu thương người khác như một con người?

M: Ta là tha nhân, tha nhân là chính Ta; tha nhân và Ta khác nhau về danh xưng và hình tướng, nhưng không có sự tách biệt. Ở tại cội nguồn của hiện hữu, chúng ta là một.

H: Thế không phải đó là như thế khi có tình yêu giữa con người?

M: Đó là như thế, nhưng con người không biết điều đó. Họ cảm nhận được sự thu hút, nhưng không biết được lý do.

H: Vì sao tình yêu lại có tính cách chọn lựa như thế?

M: Tình yêu không lựa chọn, tham ái mới lựa chọn. Trong tình yêu không có người lạ. Khi tâm điểm của lòng vị kỷ không còn nữa, mọi ham muốn lạc thú và sợ hãi đau khổ chấm dứt thì một người không còn bận tâm đến hạnh phúc; bên ngoài hạnh phúc là sự xúc cảm mãnh liệt thuần túy, là năng lượng vô tận, là trạng thái tuyệt vời chảy ra từ một cội nguồn vĩnh cửu.

H: Thế không phải tôi bắt đầu bằng cách giải quyết vấn đề về cái đúng và cái sai cho chính tôi?

M: Cái gì vui thích thì người ta cho là tốt, và cái gì đem lại đau khổ thì được cho là xấu.

H: Đúng, với những người bình thường như chúng tôi thì như thế. Còn với ông - trong cảnh giới bất nhị - thì thế nào? Theo ông, cái gì là tốt và cái gì là xấu?

M: Cái gia tăng đau khổ là xấu và cái giải trừ đau khổ là tốt.

H: Như vậy ông phủ nhận đau khổ là tốt lành. Có nhiều tôn giáo cho đau khổ là tốt lành và cao thượng.

M: Nghiệp, hay định mệnh, chỉ là sự thể hiện của một quy luật đem lại lợi ích: Xu hướng của vũ trụ thiên về sự quân bình, hài hòa và hợp nhất. Bất cứ lúc nào, bất cứ gì xảy ra bây giờ, là đều cho sự tốt lành nhất. Sự việc xảy ra có vẻ như đầy đau đớn và xấu xa như một nỗi khốn khổ đầy cay đắng và vô nghĩa, nhưng nếu xét đến cả quá khứ lẫn tương lai thì đó vẫn là cho sự tốt lành nhất - như con đường duy nhất thoát ra khỏi một tình huống đầy tai họa.

H: Có phải một người chỉ chịu đau khổ vì những tội lỗi của mình gây ra?

M: Một người đau khổ cùng với cái mà người đó nghĩ mình là. Nếu ông cảm thấy mình là một với nhân loại thì ông đau khổ cùng với nhân loại.

H: Ông tự nhận mình là một với vũ trụ, như thế sự đau khổ

của ông không có giới hạn nào trong thời gian và không gian!

M: Hiện hữu là đau khổ. Phạm vi nhận dạng chính mình của Ta càng hẹp, thì sự đau khổ do tham ái và lo sợ gây ra càng sâu sắc.

H: Giáo lý Cơ đốc chấp nhận đau khổ như là sự thanh tẩy và làm cho con người trở nên cao thượng, trong khi Ấn giáo nhìn đau khổ bằng con mắt ghê tởm.

M: Cơ đốc giáo là một cách sắp xếp ngôn từ, và Ấn giáo lại là một cách khác. Cái chơn thật ở đằng sau và bên ngoài ngôn từ, không thể truyền đạt được, chỉ có thể chứng nghiệm trực tiếp, và hệ quả của nó bùng nổ trên tâm. Nếu không còn vọng cầu bất cứ gì khác thì có thể có nó một cách dễ dàng. Cái không thật do tưởng tượng tạo ra và được duy trì bởi tham ái.

H: Không thể có đau khổ nào là cần thiết và tốt lành?

M: Đau khổ tình cờ hay ngẫu nhiên thì bất khả tránh và nhất thời; còn đau khổ do cố ý, cam chịu - cho dù với chủ đích tốt lành nhất - thì vô nghĩa và tàn ác.

H: Ông không trừng phạt tội ác?

M: Trừng phạt chỉ là một tội ác khác được hợp pháp hóa. Nếu xã hội được xây dựng trên sự ngăn ngừa, thay vì trừng phạt thì có ít tội ác hơn; ngoại trừ một vài trường hợp cần được trị liệu bằng y khoa, như rối loạn thân tâm.

H: Ông có vẻ như không cần đến tôn giáo?

M: Tôn giáo là gì? Một đám mây trên trời. Ta sống trên trời, Ta không sống trong mây - tức là vô số ngôn từ được ghép lại với nhau. Bỏ đi những cái dài giòng thì cái gì còn lại? Chân lý còn lại. Ngôi nhà của Ta ở trong cái bất biến - nó có vẻ như trạng thái thương xuyên hòa hợp và hợp nhất của những cái đối nghịch. Người ta đến đây để học về cách sống đích thực trong trạng thái như thế, về những trở ngại đối với sự thể hiện của trạng thái đó, và, một khi đã nhận thức được, người ta biết cách an định nó trong ý thức, như thế sẽ không có sự va chạm giữa hiểu và sống. Tự thân trạng thái đó ở ngoài tâm và không cần phải được học. Tâm chỉ có thể chú ý đến các chướng ngại; thấy chướng ngại là chướng ngại - là đủ, vì tâm hành sử dựa vào tâm. Khởi sự bằng cách bắt đầu: Chú ý đên thực tế ông hiện hữu. Không lúc nào ông có thể nói “Ta không hiện hữu”, mà ông chỉ có thể nói “Ta không nhớ”. Ông biết rõ trí nhớ thì không đáng tin cậy. Phải nhìn nhận rằng vì mải mê với những vấn đề nhỏ nhen của con người nên ông quên mất cái mà ông là; cố lấy lại ký ức đã mất bằng cách loại bỏ tất cả những gì đã biết. Trong khi làm như thế ông không được biết trước cái gì sẽ xảy ra, hay cái xảy ra có đáng mong cầu hay không; mọi ước đoán chỉ tạo ra ảo tưởng. Trong sự tìm kiếm nội tại, sự bất ngờ là tất yếu; cái được phát hiện chắc chắn ở ngoài mọi tưởng tượng. Cũng như một đứa bé còn trong bụng mẹ không thể biết cuộc đời sau khi được sinh ra, vì nó không có bất cứ gì trong tâm để hình thành một bức tranh có giá trị, thì tâm cũng không thể dựa trên cái hư giả để nghĩ ra cái thật, ngoại trừ bằng cách phủ định: “Không phải cái này, không phải cái kia”. Nhận cái không thật là thật chính là chướng ngại, thấy cái giả là giả và loại bỏ cái giả là đem thực tại vào hiện hữu. Những trạng thái như vô cùng trong sáng, tình yêu bao la, hoàn toàn vô úy - lúc này chỉ là ngôn từ được tô thêm mầu sắc - và chỉ có thể được xem như là những gợi ý. Ông cũng giống như một người mù hy vọng được nhìn thấy sau cuộc giải phẫu mắt - với điều kiện là ông không được trốn tránh cuộc giải phẫu! Trạng thái của Ta qua ngôn từ thì hoàn toàn không quan trọng, và cả sự lệ thuộc vào ngôn từ cũng thế. Chỉ thực tế mới quan trọng.

H: Không thể có tôn giáo nếu không có ngôn từ.

M: Tất cả tôn giáo văn tự chỉ là một đống chữ nghĩa dông dài. Tôn giáo thể hiện bộ mặt thật trong hành động, trong hành động thầm lặng. Muốn biết đức tin của một người thì chỉ cần nhìn vào hành động của người đó. Đối với hầu hết mọi người, phục vụ cho thân, tâm là tôn giáo của họ. Có thể họ có những ý tưởng về tôn giáo, nhưng họ không hành động theo những ý tưởng đó mà chỉ đùa giỡn với chúng. Người ta thường rất yêu thích những ý tưởng về tôn giáo, nhưng hành động tôn giáo thì không.

H: Ngôn từ rất cần thiết cho sự truyền đạt.

M: Trao đổi thông tin - đúng. Nhưng truyền đạt thật sự giữa con người thì vô ngôn. Để thành lập và duy trì quan hệ thì phải có sự thấy biết một cách trìu mến thể hiện trong hành động trực tiếp. Không phải những gì ông nói mà những gì ông làm mới quan trọng. Ngôn từ được tâm đặt ra và chỉ có ý nghĩa trên bình diện của tâm. Từ ngữ “bánh mì” ông không thể ăn mà cũng không thể sống bằng nó; nó chỉ chuyên chở một ý tưởng. “Bánh mì” chỉ có ý nghĩa khi nào có hành động ăn thực sự. Cũng như thế, Trạng thái Bình Thường (Normal State) mà Ta nói với ông không phải là ngôn từ, những gì mà các từ ngữ này chuyên chở thì rất ít; chỉ khi nào thân chứng, ông mới thấy được sự viên mãn và cái đẹp của nó.

Sự hữu ích của ngôn từ thì giới hạn, nhưng chúng ta không đặt ra giới hạn nào cho ngôn từ, và, vì thế chúng ta đưa chính mình đến bờ tai họa. Những ý tưởng cao cả của chúng ta phải được quân bình tương xứng bằng những hành động cao cả. Chúng ta nói về Thượng đế, Chân lý và Tình yêu, nhưng thay vì thân chứng chúng ta chỉ có các định nghĩa. Thay vì đào sâu, khơi rộng hành động thì chúng ta chỉ ghi khắc các định nghĩa, và tưởng tượng rằng chúng ta biết được cái chúng ta có thể định nghĩa!

H: Nếu không dùng ngôn từ, làm sao một người có thể truyền đạt kinh nghiệm?

M: Ngôn từ không thể truyền đạt được kinh nghiệm. Kinh nghiệm đi cùng với hành động. Một người xúc cảm mãnh liệt trong kinh nghiệm sẽ phát sinh tin tưởng và can đảm. Người khác cũng có thể hành động và đạt được kinh nghiệm từ hành động. Ngôn giáo có sự hữu ích riêng, nó chuẩn bị cho tâm xả bỏ những huân tập khỏi chính nó.

Một người đạt đến sự trưởng thành về tâm khi nhận thức được rằng tất cả những gì ở bên ngoài đều không có giá trị, và trái tim sẵn sàng buông bỏ tất cả. Lúc đó cái thật mới có cơ hội và nắm lấy. Mọi trì hoãn, nếu có, là do tâm không sẵn sàng muốn thấy, hay buông bỏ.

H: Chúng ta hoàn toàn cô độc đến thế sao?

M: Ồ không, chúng ta không cô độc đâu. Những ai có đều có thể cho. Và không thiếu người cho như thế. Tự thân thế giới là một vật cho tối thượng, được duy trì bởi sự hy sinh đầy yêu thương. Nhưng người nhận xứng đáng, trí tuệ và khiêm tốn, thì chẳng có bao nhiêu. “Hãy xin và ông sẽ được” là quy luật muôn đời.

Ông học được vô số chữ nghĩa, ông nói ra không biết bao ngôn từ. Ông biết đủ mọi thứ, nhưng ông không biết chính ông. Cái Ta không thể được biết qua ngôn từ - chỉ sự thấy biết rõ ràng qua thân chứng mới phát hiện được cái Ta. Nhìn vào trong và tìm kiếm bên trong.

H: Loại bỏ ngôn từ là điều vô cùng khó khăn. Đời sống tâm thức của con người là một giòng liên tục những ngôn từ.

M: Vấn đề không phải là dễ hay khó. Ông không có giải pháp thay thế nào khác. Hoặc là ông thử, hoặc là không. Tùy ông.

H: Tôi đã thử rất nhiều lần nhưng đều thất bại.

M: Thử nữa. Nếu ông tiếp tục thử, một cái gì đó sẽ xảy ra. Nếu không tìm cách thì ông chịu bế tắc. Hoặc là ông biết tất cả những ngôn từ đúng, viện dẫn kinh điển, xuất sắc trong tranh luận, nhưng vẫn chỉ là một cái túi đựng xương. Hoặc là ông chỉ là một người rất tầm thường, kín đáo và khiêm tốn, nhưng sáng rực với hảo tâm từ ái và trí tuệ thâm sâu.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh