Đạo Đức Kinh: Tiểu Sử Lão Tử

ĐẠO ĐỨC KINH: TIỂU SỬ LÃO TỬ

  1. TIỂU SỬ LÃO TỬ

Trước khi bình giải về Đạo đức kinh, dĩ nhiên phải nói đến tiểu sử Lão tử. Nhưng thực ra cuộc đời Lão tử mơ hồ, ẩn ước, trong đó thực tế xen lẫn với huyền thoại nên khó mà có được một ý niệm chính xác.

Có người thì cho rằng Lão tử sinh trước đức Khổng, và có lần đã gặp đức Khổng. Có người lại cho rằng ngài sinh sau đức Khổng (khoảng năm 300 trước công nguyên). [21]

Trang tử cho rằng Lão tử đã chết. [22]

Tư Mã Thiên ghi rằng khi rời khỏi Hàm Cốc 函 谷 không còn biết hành tung ngài ra sao. Tư Mã Thiên cho rằng: Lão tử cũng chỉ là một người như ai, có vợ, có con.

Biên Thiều 邊 韶 - tác giả Lão tử minh 老 子 銘 (bia Lão tử), thời Hán Văn đế 漢 文 帝 - đã ghi rằng: Đối với dân chúng, Lão tử đã có từ muôn kiếp.

Biến hóa kinh 變 化 經, viết vào khoảng 621 sau công nguyên, thời Tùy Dương đế, cho rằng Lão tử chẳng những có từ muôn thuở mà còn giáng trần nhiều lần để cứu độ muôn dân.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Hóa hồ kinh 化 胡 經 do Vương Phù 王 浮 viết vào khoảng đầu thế kỷ IV, đời vua Tấn Huệ đế 晉 惠 帝 (tức Tư Mã Trung 司 馬 衷, tại vị 290-306), cho rằng Lão tử đã đi về các nước rợ Hồ vùng Tacim, rồi sang Ấn Độ, để dạy đạo cho Phật. Sách chủ trương rằng Phật Thích ca là hậu thân của Lão tử, hay là đồ đệ của Lão tử. Quyển sách này đã gây nên bao cuộc khẩu chiến giữa các Phật tử và các đạo sĩ suốt các thời Lương đời Lương Vũ đế 梁 武 帝 (năm 520), thời Đường trong các đời vua Cao tông 高 宗 (668) và Vũ hậu 武 后 (696), thời Nguyên đời vua Hiến tông 憲 宗 (Mông Ca 蒙 哥 1258) và Nguyên Thế tổ 元 世 祖 (Hốt Tất Liệt 忽 必 烈, 1280-1294). [23]

Như vậy không thể nào chép hết ra đây được những huyền thoại về Lão tử. Sau đây tôi chỉ phỏng dịch ba tiểu sử Lão tử:

- Tiểu sử Lão tử theo Sử ký Tư Mã Thiên.

- Tiểu sử Lão tử theo Lão tử minh.

- Tiểu sử Lão tử theo Lão tử biến hóa kinh. [24]

Sau khi đã trình bày ba tiểu sử khác nhau về Lão tử, chúng ta sẽ y cứ vào các tài liệu đó để phân tách và bình giải các quan niệm khác nhau của nhân gian về Lão tử. Như vậy ta vừa giữ nguyên được các huyền thoại về Lão tử vừa có thể đưa ra đường lối mới mẻ để giải thích các huyền thoại ấy.

Cuộc hội ngộ truyền thuyết giữa Khổng Tử và Lão Tử (theo Sử Ký Tư Mã Thiên)

  1. TIỂU SỬ LÃO TỬ THEO TƯ MÃ THIÊN

LÃO TỬ TRUYỆN KHẢO

(Theo Sử ký Tư Mã Thiên)

Hán văn:

老 子 者, 楚 苦 縣 厲 鄉 曲 仁 里 人 也 姓 李 氏, 名 耳, 字 伯 陽 諡 曰 聃 周 守 藏 室 之 史 也 孔 子 適 周, 將 問 禮 於 老 子 老 子 曰: «子 所 言 者, 其 人 與 骨 皆 已 朽 矣, 獨 其 言 在 耳 且 君 子 得 其 時 則 駕, 不 得 其 時 則 蓬 累 而 行 吾 聞 之, 良 賈 深 藏 若 虛,君 子 盛 德, 容 貌 若 愚 去 子 之 驕 氣 與 多 欲, 態 色 與 淫 志, 是 皆 無 益 於 子 之 身 吾 所 以 告 子, 如 此 而 已.»

孔 子 去 謂 弟 子 曰: «鳥 吾 知 其 能 飛 魚 吾 知 其 能 游 獸 吾 知 其 能 走 走 者 可 以 為 罔, 游 者 可 以 為 綸, 飛 者 可 以 為 矰 至 於 龍, 吾 不 能 知 其 乘 風 雲 而 上 天 吾 今 日 見 老 子 其 猶 龍 耶.»

老 子 修 道 德 其 學 以 自 隱 無 名 為 務 居 周 久 之, 見 周 之 衰, 乃 遂 去 至 關, 關 令 尹 喜 曰: «子 將 隱 矣, 強 為 我 著 書.» 於 是 老 子 乃 著 書 上 下 篇, 言 道 德 之 意 五 千 餘 言, 而 去, 莫 知 所 終. 或 曰 老 萊 子 亦 楚 人 也 著 書 十 五 篇, 言 道 家 之 用, 與 孔 子 同 時 云 蓋 老 子 百 六 十 餘 歲, 或 言 二 百 餘 歲 以 其 修 道 而 養 壽 也.

老 子 隱 君 子 也. 老 子 之 子 名 宗. 宗 為 魏 將 封 於 段 干. 宗 子 注. 注 子 宮. 宮 玄 孫 假 假. 仕 於 漢 文 帝. 而 假 之 子 解 為 膠 西 王 印 太 傅, 因 家 於 齊 焉.

世 之 學 老 子 者 絀 儒 學. 儒 學 則 絀 老 子. 道 不 同 不 相 為 謀. 豈 謂 是 耶. 老 子 無 為 自 化, 清 靜 自 正.

Phiên âm:

Lão tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử. Lão tử viết: «Tử sở ngôn giả, kỳ nhân dữ cốt giai dĩ hủ hĩ. Độc kỳ ngôn tại nhĩ. Thả quân tử đắc kỳ thời, tắc giá; bất đắc kỳ thời, tắc bồng lụy nhi hành. Ngô văn chi, lương cổ thâm tàng nhược hư; quân tử thịnh đức dung mạo nhược ngu. Khứ tử chi kiêu khí dữ đa dục, thái sắc dữ dâm chí. Thị giai vô ích ư tử chi thân. Ngô sở dĩ cáo tử như thử nhi dĩ.» [25]

Khổng tử khứ vị đệ tử viết: «Điểu ngô tri kỳ năng phi, ngư ngô tri kỳ năng du; thú ngô tri kỳ năng tẩu. Tẩu giả khả dĩ vi võng, du khả giả dĩ vi luân, phi giả khả dĩ vi tăng. Chí ư long, ngô bất năng tri kỳ thừa phong vân thượng thiên. Ngô kim nhật kiến Lão tử, kỳ do long da?»

Lão tử tu đạo đức. Kỳ học dĩ tự ẩn vô danh vi vụ. Cư Chu cửu chi, kiến Chu chi suy, nãi toại khứ. Chí quan, quan lệnh Doãn Hỉ viết: «Tử tương ẩn hĩ, cưỡng vi ngã trứ thư.» Ư thị Lão tử nãi trứ thư thượng hạ thiên, ngôn đạo đức chi ý, ngũ thiên dư ngôn, nhi khứ, mạc tri sở chung.

Hoặc viết: «Lão Lai tử diệc Sở nhân dã, trứ thư thập ngũ thiên, ngôn đạo gia chi dụng, dữ Khổng tử đồng thời vân.»

Cái Lão tử bách lục thập dư tuế, hoặc ngôn nhị bách dư tuế dĩ kỳ tu đạo nhi dưỡng thọ dã.

Lão tử ẩn quân tử dã. Lão tử chi tử danh Tông. Tông vi Ngụy tướng phong ư Đoạn Can. Tông tử Chú. Chú tử Cung. Cung huyền tôn Giả. Giả sĩ ư Hán Văn đế. Nhi Giả tử Giải vi Giao Tây vương Ấn thái phó, nhân gia ư Tề yên.

Thế chi học Lão tử giả tắc chuyết Nho học. Nho học tắc chuyết Lão tử. Đạo bất đồng bất tương vi mưu. Khởi vị thị da? Lão tử vô vi tự hóa, thanh tĩnh tự chính.

Dịch:

Lão tử là người thôn Khúc Nhân 曲 仁, làng Lệ 厲,[26] huyện Khổ 苦, nước Sở 楚[27] Ngài họ Lý 李, tên Nhĩ 耳, tự Bá Dương 伯 陽, thụy là Đam 聃. Làm quản thủ thư viện nhà Chu.

Khổng tử đến Chu, hỏi Lão tử về lễ, Lão tử nói: «Những người mà ông đề cập tới, đã hóa ra người thiên cổ từ lâu. Nay chỉ còn lại những lời nói của họ. Người quân tử khi đắc thế, thời đi xe; khi thất thế thời đi chân mặc rách. Tôi nghe nói rằng một con buôn giỏi tất nhiên thu sâu, dấu kín, hình như không có gì. Người quân tử đạo đức cao dày thường có vẻ ngoài như kẻ ngu si. Ông hãy từ bỏ sự kiêu căng và dục tình. Hãy từ bỏ những kiểu cách bên ngoài lòe loẹt và những tham vọng. Những cái đó chỉ làm hại cho ông. Đó là những gì tôi muốn nói.» [28]

Khổng tử ra về nói với đệ tử rằng: «Con chim ta biết nó có thể bay; con cá, ta biết nó có thể lội; con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy thời có thể chăng dò, lội thời có thể đánh lưới, bay thời có thể bắn tên; đến như rồng, thời ta không thể biết; nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp Lão tử, ngài thực là rồng vậy.»

Lão tử tu đạo đức. Cái học của ngài trọng ẩn dật, vô danh. Ở Chu lâu năm, sau thấy nhà Chu suy, liền ra đi. Tới quan ải, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: «Ngài sắp đi ẩn, xin cố vì tôi viết sách.»

Lão tử bèn viết Đạo đức kinh chia thành hai thiên gồm hơn năm nghìn chữ, đoạn đi, không biết sau ra sao.

Có người nói rằng: [Lão Lai tử chính là Lão tử. ] Lão Lai tử cũng là người nước Sở, viết sách mười lăm thiên, nói về chuyện đạo gia, đồng thời Khổng tử.

Có người cho rằng Lão tử biết cách tu dưỡng nên đã thọ 160 hay 200 tuổi. Lão tử là một vị ẩn cư. Con ngài tên Tông 宗. Tông làm tướng nước Ngụy 魏, ở xứ Đoạn Can 段干. Tông có con tên là Chú 注. Chú có con tên là Cung 宮. Cháu sáu đời của Cung tên là Giả 假, làm quan đời Hán Văn đế (179-156). Con của Giả tên là Giải 解, làm quan thái phó cho vua Ấn nước Tề, ở xứ Giao Tây.

Người học Lão tử thời châm biếm đạo Nho; người theo đạo Nho thời châm biếm Lão tử. Thế mới hay: Chẳng đồng đạo, thì chẳng cộng tác với nhau được. Lý Nhĩ vô vi để tự hóa; thanh tĩnh để tự chính. [29]

LÃO TỬ CỔ TÍCH ĐỒ [30]

  1. Lệ hương厲 鄉(Khổ huyện 苦 縣): nơi Lão tử sinh.
  2. Lạc Dương洛 陽: nơi Lão tử làm quan. 3. Hàm Cốc函 谷: nơi Lão tử chép sách.

  1. TIỂU SỬ LÃO TỬ THEO LÃO TỬ MINH[31]

LÃO TỬ MINH 老 子 銘

Hán văn:

第 一 段

老 子 姓 李 字 伯 陽 楚 相 縣 人 也. 春 秋 之 後 周 分 為 二 稱 東 西 君 晉 六 卿

專 征 與 齊 楚 並 僭 號 為 王 以 大 并 小 相 縣 虛 荒 今 屬 苦. 故 城 猶 在 在 賴

鄉 之 東 渦 水 處 其 陽 其 土 地 鬱 螉 高 敝 宜 生 有 德 君 子 焉. 老 子 為 周 藏

室 史.當 幽 王 時 三 川 實 震 以 夏 殷 之 季, 陰 陽 之 事 鑒 喻 時 王 孔 子 以 周

靈 王 廿 (混 元 作 二 十 一 ) 年 生. 至 景 王 十 年 年 十 有 七 學 禮 於 老 聃 計

其 年 紀 聃 時 以 一 百 餘 歲 聃 然 老 耄 也. 孔 子 卒 後 百 廿 九 年 或 謂 周 太

史 為 老 子 莫 知 其 所 終

第 二 段

其 二 篇 書 稱 天 地 所 以 能 長 且 久 者 以 不 自 生 也 厥 初 生 民 遺 體 相 續

其 死 生 之 義 可 知 也 或 有 谷 神 不 死 是 謂 玄 牝 之 言 由 是 世 之 好 道 者

觸 類 而 長 之 與 老 子 離 合 於 混 沌 之 氣 與 三 光 為 終 始 觀 天 作 讖 降 升

斗 星 隨 日 九 變 與 時 消 息 規 矩 三 光. 四 靈 在 旁 存 想 丹 田 太 一 紫 房 道

成 身 化 蟬 蛻 渡 世. 自 羲 農 以 來 為 聖 也 作 師 班 固 以 老 子 絕 聖 棄 智 禮

為 亂 首 與 仲 尼 道 違 述 漢 書 古 今 人 表. 檢 以 法 度 抑 而 下 之 與 楚 子 西

同 科 材 不 及 荀 卿 孟 軻. 二 者 之 論 殊 矣 所 謂 道 不 同 不 相 為 謀 也.

第 三 段

延 熹 八 年 八 月 甲 子 皇 上 尚 德 弘 道 含 閎 光 大 存 神 養 性 意 在 凌 雲 是

以 僭 心 黃 軒 同 符 高 宗 夢 見 老 子 尊 而 祀 之 于 時 陳 將 邊 韶 典 國 之 禮

材 薄 思 淺 不 能 測 度 至 人 辯 是 與 非 按 據 書 籍 以 為 老 子 生 於 周 之 末

世 玄 虛 守 靜 樂 無 名 守 不 德 危 高 官 安 下 位 遺 孔 子 以 仁 言 避 世 而 隱

居 變 易 姓 名 惟 恐 見 知 夫 日 以 幽 明 之 節 月 以 虧 盈 自 成 損 益 盛 衰 之

原 倚 伏 禍 福 之 門 天 道 惡 盈 而 好 謙 蓋 老 子 勞 不 定 國 功 不 加 民 所 以

見 隆 崇 于 今 為 時 人 所 以 享 祀 乃 昔 日 逃 祿 處 微 損 之 又 損 之 之 餘 昨

也 顯 虛 無 之 清 寂 云 先 天 地 而 生 乃 守 真 養 壽 獲 五 福 之 所 致 也 敢 演

而 明 之.

第 四 段

其 辭 曰: 於 惟 玄 德 抱 虛 守 清 樂 居 下 位 祿 執 不 盈 為 繩 能 直 屈 之 可 縈.

三 川 之 對 舒 憤 散 逞. 陰 不 填 陽 孰 能 滯 并. 見 機 而作 需 郊 出 坰. 肥 遁 之

吉 避 世 隱 聲. 見 迫 遺 言 道 德 之 經. 譏 時 微 喻 尋 顯 推 冥. 守 一 不 失 為 天

下 正. 處 厚 不 薄 居 實 含 榮. 稽 式 為 重 金 玉 是 輕. 絕 嗜 去 欲 還 歸 嬰 兒 皓

然 歷 載 莫 知 其 情. 頗 違 法 言 先 民 之 程. 要 以 無 為. 大 化 用 成 進 退 無 恆.

錯 綜 其 貞. 以 智 為 愚 充 而 不 盈. 大 人 之 度 非 凡 所 訂. 九 等 之 敘 何 足 累

名. 同 光 日 月 合 之 五 星. 出 入 丹 爐 呼 吸 至 精. 世 不 能 原 仰 其 永 生. 天 人

秩 祭 以 昭 厥 靈. 羨 彼 延 期 勒 石 是 旌.

Phiên âm:

ĐỆ NHẤT ĐOẠN

Lão tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên. Lão tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương. Khổng tử dĩ Chu Linh vương trấp (Hỗn nguyên tác: nhị thập nhất) niên sinh. Chí Cảnh vương thập niên, niên thập hữu thất, học Lễ ư Lão Đam. Kế kỳ niên kỷ, Đam thời dĩ nhất bách dư tuế. Đam nhiên lão mạo dã. Khổng tử tốt hậu bách trấp cửu niên, hoặc vị Chu thái sử vi Lão tử, mạc tri kỳ sở chung.

ĐỆ NHỊ ĐOẠN

Kỳ nhị thiên thư xưng: thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ bất tự sinh dã. Quyết sơ sinh dân, di thể tương tục, kỳ tử sinh chi nghĩa khả tri dã. Hoặc hữu Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn chi ngôn. Do thị thế chi hiếu đạo giả, xúc loại nhi trưởng chi, dĩ Lão tử ly hợp ư hỗn độn chi khí, dữ tam quang vi chung thủy, quan thiên tác sấm, giáng thăng đẩu tinh. Tùy nhật cửu biến, dữ thời tiêu tức, qui củ tam quang. Tứ linh tại bàng, tồn tưởng đan điền. Thái nhất tử phòng, đạo thành thân hóa. Thiền thoát độ thế. Tự Hi Nông dĩ lai, vi thánh giả tác sư. Ban Cố dĩ Lão tử tuyệt thánh khí trí lễ vi loạn thủ, dữ Trọng Ni đạo vi, thuật Hán thư cổ kim nhân biểu, kiểm dĩ pháp độ, ức nhi hạ chi, dữ Sở Tử Tây đồng khoa, tài bất cập Tuâân Khanh Mạnh Kha. Nhị giả chi luận thù hĩ. Sở vị đạo bất đồng bất tương vi mưu dã.

ĐỆ TAM ĐOẠN

Diên Hi bát niên, bát nguyệt Giáp Tí, Hoàng thượng, thượng đức hoằng đạo, hàm hoằng quang đại, tồn thần dưỡng tính, ý tại lăng vân. Thị dĩ tiềm tâm Hoàng Hiên, đồng phù Cao tông, mộng kiến Lão tử, tôn nhi tự chi. Vu thời Trần tướng Biên Thiều, điển quốc chi lễ, tài bạc tư thiển, bất năng trắc độ chí nhân, biện thị dữ phi, án cứ thư tịch, dĩ vi Lão tử sinh ư Chu chi mạt thế, huyền hư thủ tĩnh, lạc vô danh, thủ bất đức, nguy cao quan, an hạ vị.

Di Khổng tử dĩ nhân ngôn, tị thế nhi ẩn cư. Biến dịch tính danh duy khủng kiến tri. Phù nhật dĩ u minh vi tiết, nguyệt dĩ khuy doanh tự thành, tổn ích thịnh suy chi nguyên, ỷ phục họa phúc chi môn. Thiên đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Cái Lão tử lao bất định quốc, công bất gia dân. Sở dĩ kiến long sùng vu kim, vi thời nhân sở dĩ hưởng tự, nãi tích nhật đào lộc xử vi, tổn chi hựu tổn chi chi dư tạc dã. Hiển hư vô chi thanh tịch, vân tiên thiên địa nhi sinh, nãi thủ chân dưỡng thọ, hoạch ngũ phúc chi sở trí dã. Cảm diễn nhi minh chi.

ĐỆ TỨ ĐOẠN

Kỳ từ viết: Ư duy huyền đức bão hư thủ thanh, lạc cư hạ vị, lộc chấp bất doanh, vi thằng năng trực, khuất chi khả oanh. Tam xuyên chi đối, thư phẫn tán trình. Âm bất điền Dương, thục năng trệ tính. Kiến cơ nhi tác, nhu giao xuất quynh. Phì độn chi cát tị thế ẩn thanh. Kiến bách di ngôn, đạo đức chi kinh. Ky thì vi dụ, tầm hiển suy minh. Thủ nhất bất thất, vi thiên hạ chính. Xử hậu bất bạc, cư thật hàm vinh. Kê thức vi trọng, kim ngọc thị khinh. Tuyệt thị khứ dục, hoàn qui anh nhi. Hạo nhiên lịch tải mạc tri kỳ tình. Phả vi pháp ngôn, tiên dân chi trình. Yêu dĩ vô vi. Đại hóa dụng thành, tiến thoái vô hằng. Thác tống kỳ trinh. Dĩ trí vi ngu, sung nhi bất doanh. Đại nhân chi độ, phi phàm sở đính. Cửu đẳng chi tự, hà túc lụy danh. Đồng quang nhật nguyệt, hợp chi ngũ tinh. Xuất nhập đơn lô, hô hấp chí tinh. Thế bất năng nguyên, Ngưỡng kỳ vĩnh sinh. Thiên nhân trật tế, dĩ chiêu quyết linh, tiện bỉ diên kỳ, lặc thạch thị tinh.

Dịch:

  1. Lão tử tính lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một cao nguyên cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức. Lão tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua. Khổng tử sinh năm 20 thời Linh vương. Đến năm Cảnh vương thứ mười, Khổng tử, mới 17 tuổi, đến học lễ với Lão Đam. Nếu ta tính tuổi, thì khi ấy Lão Đam đã hơn 200 tuổi. Đam nghĩa là đạo mạo, lão mạo. Có người quả quyết rằng, 129 năm sau khi đức Khổng mất Chu Thái sử Đam cũng chính là Lão tử. Nhưng không ai biết Ngài mất bao giờ.
  2. Trong quyển sách chia làm hai thiên của ngài có chép: «Nếu trời đất trường cửu, chính là vì không vì mình sống.» Từ khi có loài người đến nay, thể xác nối tiếp nhau. Như vậy là biết ngài (Lão tử) nghĩ thế nào về tử sinh. Vì trong sách ngài có câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn.» cho nên những người yêu Đạo mới nhân đấy mà luận về Lão tử như sau:

Ngài cùng với Hỗn nguyên ly hợp,

Với tam quang, ngài vượt thời gian.

Trông trời, đoán vận trần hoàn,

Bảy vì tinh đẩu, nhẹ nhàng xuống lên.

Cùng với ngày, biến thiên chín bận,

Tùy theo mùa, khi giảm khi tăng.

Tinh huy, qui củ chuẩn thằng,

Tứ linh, tứ tượng vốn hằng chầu bên.

Ngưng thần khí, đơn điền não bộ,

Cung nê hoàn mấy độ tiêu dao.

Sánh vai Thái nhất ra vào,

Đạo thành, thân thoát, từ bao độ đời.

Từ Hi, Nông, đến thời hiện tại,

Bao thánh hiền, ngài mãi là thầy...

Ban Cố [32] vì thấy Lão tử khinh thường kiến văn, coi nghi lễ là đầu mối loạn, không cùng đường lối với đức Khổng, nên khi lập đồ biểu liệt kê nhân vật cổ kim trong Hán thư đã hạ Lão tử xuống ngang hàng với Tử Sản nước Sở, và dưới hàng Mạnh tử, Tuân tử. Như vậy hai bên (phe của Ban Cố, phe của Lão giáo) có quan niệm khác nhau, chính là vì «khác đạo với nhau thì không cộng tác với nhau được.»

III. Năm Diên Hi thứ 8, tháng 8, ngày Giáp tý,[33] Hoàng thượng, vì chuộng đức, ước mong tiến tới chỗ tinh hoa cao đại, nên đã tồn thần dưỡng tính, để vươn lên đến chốn cửu tiêu. Chính vì thế nên Ngài đã tiềm tâm học đạo Hoàng Hiên [34] Ngài như Cao tông đã nằm mộng thấy Lão tử nên đã tôn sùng và tế lễ Lão tử. Lúc này Biên Thiều tôi, đang làm tướng nước Trần, nên chủ sự cuộc tế lễ ở đây. Tôi tài hèn trí mọn không thấy hiểu được bậc chí nhân cũng không biết biện phân phải trái, nên chỉ dựa vào thư tịch mà chủ trương:

Đức Lão tử sinh thời Chu mạt.

Yêu hư vô, mà bạn thanh nhàn,

Không cầu danh với thế gian,

Không ưa những thói phô phang đức tài.

Coi chức trọng là nơi nguy hiểm,

Vui sống trong chốn kém, chốn hèn,

Tặng cho đức Khổng lời khuyên,

Giã từ thế tục, lâm tuyền ẩn cư.

Thay họ mạc cũng như danh tánh,

Sợ đời hay, nên lánh chuyện đời.

Vừng dương sáng tối lần hồi,

Vầng trăng tròn khuyết đầy vơi tương tùy.

Thêm với bớt thịnh suy ấy gốc,

Và trên đời họa phúc theo nhau,

Trời kia nào thích đầy đâu,

Mà thương những kẻ gót đầu khiêm cung.

Theo Lão tử, lao lung vất vả,

Định giang sơn mấy nả mà mong?

Vì dân xin chớ kể công,

Công lênh rôùt cuộc cũng không ích gì.

Ngài nay được tôn suy, sùng thượng,

Chính vì xưa chẳng tưởng công danh,

Một ngày một giảm công trình,

Sống trong hư tĩnh, siêu linh tuyệt vời.

Rằng ngài trước đất trời sinh xuất,

Chính vì ngài chẳng mất lòng son,

Thiên chân giữ được vẹn tròn,

Cho nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.

Nên tôi mạn mà ghi tiếp tục:

  1. Đức độ ngài rất mực cao siêu,

Hư không, thanh tĩnh đến điều,

Ưa nơi thấp kém, chê chiều quang hoa.

Giây khi thẳng, thời đà thẳng dẵng,

Nhưng đem khoanh cũng chẳng ngại cong,

Trời làm chấn động ba sông,

Can vua, vả khiến cho lòng dân an.

Nếu Âm chẳng lăng loàn lấn át,

Át Dương kia, tan tác sao sinh?

Cơ suy vừa lộ mối manh,

Thời đà rũ áo, ẩn mình từ đây.

Người nài nỉ: ra tay sáng tạo,

Đạo đức kinh di cảo dạy đời.

Nhẹ nhàng chỉ trích đương thời,

Đem điều sáng sủa soi nơi mịt mùng.

Cùng Thái nhất thủy chung bầu bạn,

Treo cho đời gương sáng chính trung.

Dặn dầy, chân thực thời ưng,

Mỏng manh hào nháng thời không ngó ngàng.

Ưa cốt cách, bạc vàng rẻ rúng.

Bao dục tình chặn đứng mới nghe.

Trở về trạng thái Anh nhi,

Mái sương vượt quá hạn kỳ trần gian.

Hành tung ngài, khó toan, khó luận,

Luật gian trần chẳng bận niềm riêng,

Khinh phiêu phơi phới tự nhiên,

Vô vi, vô dục biến thiên mặc tình.

Tiến hay thoái phiêu linh tùy tiện,

Tùy thời cơ thiên biến vạn năng.

Xá chi kiến thức gian trần,

Dẫu đầy mà vẫn ngỡ rằng còn vơi.

Bậc đại nhân siêu thời xuất thế,

Kẻ phàm phu, hồ dễ mà hay.

Uổng công xếp hạng nọ này,

Miệng phàm hồ dễ xấu lây danh người.

Cùng nhật nguyệt chói ngời sáng láng,

Cùng ngũ tinh chiếu rạng quang huy.

Vào ra nơi chốn đan trì,

Huỳnh đình lên xuống muôn bề khinh phiêu.

Cùng lưu tục chẳng điều quyến luyến,

Dấu phong quang làm biến hình hài.

Chắt chiu ôm ấp tính trời,

Muôn nghìn biến hóa theo đòi thần minh.

Hô hấp khí khinh thanh thuần túy,

Trong trần hoàn hồ dễ ai hay,

Vĩnh sinh ấy chính là ngài,

Đời rằng ngài với đất trời trường sinh.

Vua tế tự linh đình bày biện,

Để oai ngài trình hiện muôn nơi,

Tôi nay muốn để tiếng Người.

Cho nên ghi tạc những lời ngợi khen.

  1. TIỂU SỬ ĐỨC LÃO TỬ THEOLÃO TỬ BIẾN HÓA KINH [35]

LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH 老 子 變 化 經

Hán văn:

立 大 始 端 行 乎 大 之 原 浮 熬 幽 靈 空 之 入 窈冥 之 先 門 親 乎 皆 誌 之 未 別 和 清

濁 之 外 彷 彿 之 與 切 古 慌 忽 之 廓 然 衝 撞 而 之 容 [?] 同 門 之 先 邊 印 步 宙 天

門 其 生 無 騷 獨 立 而 無 倫 行 乎 古 昔 在 天 地 之 前 乍 匿 還 歸 存 亡 則 為 先 成

則 為 人 慌 忽 天 濁 化 變 其 神 託 形 李 母 胎 中 易 身 優 命 腹 中 七 十 二 年 中, 現

楚 國 李 口 序 與 肩 頰 有 參 午 大 理 日 角 月 玄 鼻 有 雙 柱, 耳 有 三 門 足 (蹈) 二 年

(五) 手 把 天 關 其 性 無 欲 其 行 無 為 欲 天 輔 佐, 三 皇 倚 徙 觀 之 匿 見 無 常 本 皆

由 此 彌 歷 久 長 國 將 衰, 王 道 崩 毀, 則 去 楚 國, 北 之 崑 崙 以 乘 白 鹿, 訖 今 不 還

此 皆 自 然 之 至 精, 道 之 根 蒂 為 乘 之 父 母, 為 天 地 之 本 根, 為 生 梯 端 為 神 明

之 帝 君, 為 陰 陽 之 祖 首, 為 萬 物 之 魂 魄 條 暢 靈 無 造 化 應 因 挨 帝 八 極 載 地

懸 天 遊 騁 日 月, 迴 走 日 辰 呵 投 六 甲 此 乾 坤 紀 易 四 時 推 移 寒 溫 手 把 仙 錫

玉 簡 今 字 稱 以 銀 人 喜 初 鳳 頭, 絕 聖 父 制, 物 屋 命 直, 父 為 之 生 焉 老 子 能 明

能 冥, 能 亡 能 存, 能 大 能 小, 能 屈 能 申, 能 高 能 下 能 縱 能 橫, 能 反 能 覆; 無 所

不 施 無 所 不 能 在 火 不 燋 在 水 不 寒; 逢 惡 不 疾; 觸 禍 不 患 厭 之 不 苦, 傷 之

無 槃 長 生 不 死, 須 滅 身 形 偶 而 不 雙, 隻 而 不 奇 附 而 不 離, 莫 于 其 無 為 也 莫

能 不 隨 世 (之) 此 老 子 之 行 也 嚴 誡 眇 矣 誠 難 知 矣 老 子 既 生 九 重 之 外 形 變

化 自 然 子 知 吾 九 人 何 優 仙 夫 為 生 道, 甚 易 難 子 學 吾 生 道, 無 如 中 止, 卅 日

共 月 道 畢 滄 第 一 姓 李 名 老 字 元 陽 第 二 姓 李 名 聃 字 伯 陽 第 三 姓 李 名 中 字

伯 光 第 四 姓 李 名 石 字 子 光 第 五 姓 李 名 石 字 子 文 第 六 姓 李 名 宅 字 子 長

第 七 姓 李 名 元 字 子 始 第 八 姓 李 名 願 字 子 生 第 九 姓 李 名 德 字 伯 文 老 子

合 元 沰 元 混 成 隨 世 沉 浮 退 則 養 精 進 帝 王 師 皇 苞 羲 時 號 曰 溫 爽 子 皇 神 農

時 號 曰 春 成 子, 一 名 陳 豫 皇 祝 融 時 號 曰 廣 成 子 帝 顓 頊 時 號 曰 赤 精 子 帝 嚳

時 號 曰 真 子 名 黃 帝 時 號 曰 天 老 帝 堯 時 號 曰 茂 成 子 帝 舜 時 號 曰 廓 叔 子 化

形 舜 立 壇 春 秋 祭 祀 之 夏 禹 時 老 子 出 號 曰 李 耳, 一 名 禹 師 殷 湯 時 號 曰 斯 宮

周 父 皇 時 號 曰 先 王 國 柱 下 吏 武 王 時 號 曰 衛 成 子 成 王 時 號 曰 成 子 如 故 元

康 五 年 老 子 入 婦 女 腹 中 七 十 二 年 生 託 母 姓 名 聃 字 伯 陽, 為 柱 下 吏 七 百 年

還 變 楚 國 而 平 王 高 蹇 不 從 諫 道 德 不 流 則 去 楚 而 西 度 咸 谷 關 以 五 千 文 上

下 二 篇 授 關 長 尹 喜 秦 時 號 曰 蹇 叔 子 大 胡 時 號 曰 浮 慶 君 漢 時 號 王 方 平 陽

加 元 年 始 見 城 都 為 鶣 爵 鳴 山 建 康 元 年 化 於 白 鹿 山 託 澗 太 初 元 年 復 出 白

鹿 廟 中 治 崔 號 曰 仲 伊 建 和 二 年 於 崩 山 卒 出 城 都 左 里 城 門, 壞 身 形 為 真 人

漢 知 之 改 為 照 陽 門 楚 國 知 之 生 司 馬 照 永 壽 元 年 復 還 白 鹿 山, 號 曰 僕 人

大 賢 問 閉 口 不 言, 卅 年 建 廟 白 鹿 為 天 傅 老 子 曰: 吾 敖 以 清 吾 事 以 明, 吾 證

以 成 吾 變 易 身 形 託 死 更 生, 周 流 四 海 時 出 黃 庭 經 歷 渡 踐 履 三 皇 戴 冒 三 台,

被 服 無 形 愚 者 不 知 死 復 更 生 儽 至 為 身 僮 兒 為 群 外 為 亡 僕, 內 自 為 真 自 屋

俱 澋, 自 有 精 神 晝 夜 念 我, 吾 不 忽 云 味 夢 想 吾, 我 自 見 信 吾 發 動 官 漢 令 自

易 身 愚 者 踊 躍, 智 者 受 訓 天 地 事 絕, 吾 自 移 運 當 世 之 時, 簡 擇 良 民, 不 須 自

去, 端 質 守 身 吾 自 知 之 翁 養 文 鱗 欲 知 吾 處, 讀 五 千 文 過 萬 變 首 自 知 身 急 來

詣 我 吾 與 精 神 子 當 念 父, 父 當 念 子 怡 忽 想 忘 去 之 萬 里, 所 治 解 怠, 神 不 為

使, 疾 來 遂 我 我 絕 綱 紀 青 白 為 表, 黃 黑 為 裡 赤 為 生 我, 從 一 而 始, 中 有 黃 氣,

可 絕 酒, 教 子 為 道, 先 當 修 己, 恬 泊 靜 寧 (穿), 撿 其 滿 手, 無 為 無 欲, 不 憂 患 谷

(苦), 道 來 附, 身 可 度 矣 精 思 放 我 神 為 走 使 吾 衡 剛, 吾 更 勝 負 生 氣 在 左, 原 氣

在 右 中 有 黃 氣 元 陽 為 上, 通 無 極 九 宮 僮 子 精 之, 思 之, 可 以 成 己 一 僶 道 成

教 告 諸 子 吾 六 度 太 白 橫 流, 疾 來 逐 我, 南 嶽 相 求, 可 以 度 危, 恐 子 稽 留, 立 春

癸 巳 放 縱 罪 囚 五 榖 驚 起, 人 民 有 憂, 疾 病 欲 至 餓 者 縱 橫 吾 轉 衝 撞 漢 事 吾

民 聞 之 自 有 志 棄 鄙 自 凍 無 姓 字 因 漢 自 識, 萬 民 見 端 直 實 心 乃 知 吾 事 合

知 聖 者 習 吾 意, 邪 心 狠 性 謂 我 何 人 吾 以 度 數 出 有 時 節 而 化 知 吾 者 少 非 吾

者 多 老 子 變 化 經 大 業 八 年 八 月 十 四 日, 經 生 王 儔 寫 用 紙 四 張 玄 都 玄 壇 道

士 覆 校 裝 潢 人 秘 書 省 寫.

Phiên âm:

[1] Lập đại thủy đoan, hành hồ đại chi nguyên. Phù ngao u linh không chi. [2] Nhập yểu minh chi tiên môn. Thân hồ giai chí chi vị biệt. [36] Hòa thanh trọc chi ngoại. [37] [3] Phảng phất chi dữ thiết cổ hoảng hốt chi khuếch nhiên sung tràng nhi chi dung. [4] (?) đồng môn chi tiên. Biên ấn bộ trụ thiên môn. Kỳ sinh vô tao. Độc lập nhi vô luân. [5] Hành hồ cổ tích, tại thiên địa chi tiền. Sạ nặc hoàn qui tồn [6] vong tắc vi tiên, thành tắc vi nhân. Hoảng hốt thiên trọc. [38] Hóa biến kỳ thần. [7] Thác hình Lý mẫu thai trung. Dịch thân ưu mệnh. Phúc trung thất thập nhị niên trung, hiện [8] Sở quốc. Lý khẫu tự dữ [39] kiên giáp hữu tam ngọ đại lý. [40] Nhật giác, nguyệt huyền. [9] Tị hữu song trụ, nhĩ hữu tam môn; túc [41] [10] nhị niên (ngũ). Thủ bá thiên quan. [42] Kỳ tính vô dục; Kỳ hành vô vi. Dục thiên phụ. [11] tá, tam hoàng ỷ tỉ. Quan chi nặc kiến vô thường bản giai do thử. Di lịch [12] cửu trường. Quốc tương suy, vương đạo băng hủy, tắc khứ Sở quốc, bắc chi Côn lôn [13] dĩ thừa bạch lộc, cật kim bất hoàn. Thử giai tự nhiên chi chí tinh, Đạo chi [14] căn đế. Vi thặng chi phụ mẫu, vi thiên địa chi bản căn, vi sinh thê đoan [15] vi thần minh chi đế quân, vi âm dương chi tổ thủ, vi vạn vật chi hồn [16] phách. Điều sướng linh vô [43] Tạo hóa ứng nhân, sĩ đế bát cực [44] tải địa huyền thiên. [45] [17] Du sính nhật nguyệt, hồi tẩu nhật thần. Ha đầu lục giáp. [46] Thử Kiền Khôn [47] Kỷ dịch [18] tứ thời. Suy di hàn ôn. Thủ bả tiên tích [48] ngọc giản kim tự. Xưng dĩ ngân [19] nhân. Thiện sơ phụng đầu; tuyệt thánh phụ chế, vật ốc mệnh trực, phụ vi chi sinh [20] yên. Lão tử năng minh, năng minh; năng vong năng tồn, năng đại năng tiểu, năng khuất [21] năng thân; năng cao năng hạ; năng tung năng hoành; năng phản năng phúc; vô sở bất [22] thi, vô sở bất năng; tại hỏa bất tiêu; tại thủy bất hàn, phùng ác bất tật; [23] xúc họa bất hoạn. Yểm chi bất khổ,[49] thương chi vô bàn. [50] Trường sinh bất tử, tu diệt [24] thân hình. Ngẫu nhi bất song, chích nhi bất cơ. Phụ nhi bất ly mạc vu kỳ [25] vô vi dã. Mạc năng bất tùy chi. [51] Thử Lão tử chi hành dã. Nghiêm giới miểu [26] hĩ. Thành nan tri hĩ. [27] Lão tử ký sinh cửu trùng chi ngoại. Hình biến hóa tự nhiên. Tử tri ngô cửu [28] nhân hà ưu tiên. Phù vi sinh đạo, thậm dị nan. Tử học ngô sinh đạo, vô [29] như trung chỉ, trấp nhật cộng nguyệt đạo tất thương. [30] Đệ nhất tính Lý, danh Lão Đam tự Nguyên Dương. [31] Đệ nhị tính Lý, danh Đam, tự Bá Dương. [32] Đệ tam tính Lý, danh Trung, tự Bá Quang. [33] Đệ tứ tính Lý, danh Thạch, tự Tử Quang. [34] Đệ ngũ tính Lý, danh Thạch, tự Tử Văn. [35] Đệ lục tính Lý, danh Trạch, tự Tử Trường. [36] Đệ thấtõ tính Lý, danh Nguyên, tự Tử Thủy. [37] Đệ bát tính Lý, danh Nguyện, tự Tử Sinh. [38] Đệ cửu tính Lý, danh Đức, tự Bá Văn. [39] Lão tử hợp nguyên đát, nguyên hỗn thành. Tùy thế trầm phù thoái tắc dưỡng tinh. [40] Tiên đế vương sư. [41] Hoàng Bao Hi thời, hiệu viết Ôn Sảng tử. [42] Hoàng Thần Nông thời, hiệu viết Xuân Thành tử, nhất danh Trần Dự. [43] Hoàng Chúc Dung thời, hiệu viết Quảng Thành tử. [44] Đế Chuyên Húc thời, hiệu viết Xích Tinh tử. [45] Đế Cốc thời, hiệu viết Chân tử danh Bích. [46] Hoàng đế thời, hiệu viết Thiên Lão. [47] Đế Nghiêu thời, hiệu viết Mậu Thành tử. [48] Đế Thuấn thời, hiệu viết Quách Thúc tử hóa hình. Thuấn lập đàn xuân thu tế tự [49] chi. [50] Hạ Vũ thời, Lão tử xuất, hiệu viết Lý Nhĩ, nhất danh Vũ sư. [51] Ân Thang thời, hiệu viết Tư Cung. [52] Chu phụ hoàng thời, hiệu viết tiên vương quốc trụ hạ lại. [53] Võ vương thời, hiệu viết Vệ Thành tử. [54] Thành vương thời, hiệu viết Thành tử như cố. [55] Nguyên Khang ngũ niên, Lão tử nhập phụ nữ phúc trung. Thất thập nhị niên [56] sinh. Thác mẫu tính lý danh Đam, tự Bá Dương, vi Trụ hạ lại, thất bách niên [57] hoàn biến Sở quốc, nhi Bình vương cao kiển bất tòng gián. Đạo đức bất lưu, tắc. [58] khứ Sở nhi Tây. Độ Hàm cốc quan, dĩ ngũ thiên văn dĩ thượng hạ nhị thiên, thụ [59] quan trưởng Doãn Hỉ. [60] Tần thời, hiệu viết: Kiển Thúc tử. [61] Đại Hồ thời hiệu viết Phù Khánh quân. [62] Hán thời, hiệu Vương Phương Bình. [63] Dương gia nguyên niên thủy hiện Thành Đô vi Biển Tước Minh Sơn. [64] Kiến Khang nguyên niên hóa ư Bạch Lộc sơn thác táng giản. [65] Thái sơ nguyên niên phục xuất Bạch Lộc miếu trung, trị thôi hiệu viết Trọng Y. [66] Kiến Hòa nhị niên ư Băng Sơn tốt xuất Thành Đô tả lý thành môn, hoại thân [67] hình vi chân nhân. Hán tri chi, cải vi Chiếu Dương môn. Sở quốc tri chi sinh. [68] Tư Mã Chiếu. [69] Vĩnh Thọ nguyên niên phục hoàn Bạch Lộc Sơn. Hiệu viết Bộc Nhân đại hiền. Vấn [70] bế khẩu bất ngôn, trấp niên kiến miếu Bạch Lộc, vi Thiên phó. [71] Lão tử viết: ngô ngao dĩ thanh, ngô sự dĩ minh. Ngô chính dĩ thành ngô biến [72] dịch thân hình. Thác tử cánh sinh. Chu lưu tứ hải, thời xuất Huỳnh đình. Kinh lịch [73] độ, tiễn lý Tam hoàng, đới mạo tam thai, bị phục Vô hình. Ngu giả bất tri [74] Tử phục cánh sinh. Lụy chí vi thân, đồng nhi vi quần. Ngoại vi vong bộc, nội [75] tự vi chân. Tự ốc câu cảnh, tự hữu tinh thần; trú dạ niệm ngã, ngô bất [76] hốt vân. Vị mộng tưởng ngô ngã tự kiến tín, ngô phát động quan Hán, lệnh tự [77] dịch thân. Ngu giả dũng dược trí giả thụ huấn. Thiên địa sự tuyệt, ngô tự di [78] vận. Đương thế chi thời, giản trạch lương dân, bất tu tự khứ, đoan chất thủ thân. [79] ngô tự tri chi, ông dưỡng văn lân. Dục tri ngô xứ, độc ngũ thiên văn quá. [80] vạn biến. Thủ tự tri thân. Cấp lai nghệ ngã, ngô dữ tinh thần. Tử đương niệm [81] phụ, phụ đương niệm tử, di hốt tương vong. Khứ chi vạn lý sở trị giải đãi, thần bất vi sứ; tật lai toại ngã, ngô tuyệt cương kỷ. Thanh bạch vi biểu, hoàng [83] hắc vi lý. Xích vi sinh ngã, tòng nhất nhi thủy. Trung hữu hoàng khí, khả tuyệt [84] tửu, giáo tử vi đạo, tiên đương tu kỷ, điềm bạc tĩnh ninh (xuyên), kiểm kỳ mãn thủ, [85] vô vi vô dục, bất ưu hoạn cốc (khổ) Đạo lai phụ, thân khả độ hĩ. Tinh tư [86] phóng ngã, thần vi tẩu sứ. Ngô hành cương, ngô canh thắng phụ. Sinh khí tại tả, [87] nguyên khí tại hữu, trung hữu hoàng khí Nguyên dương vi thượng, thông Vô cực cửu cung. [88] Đồng tử tinh chi, tư chi, khả dĩ thành kỷ. Nhất mẫn đạo thành, giáo cáo chư [89] tử; ngô lục độ. Thái bạch hoành lưu, tật lai trục ngã, nam nhạc tương cầu, khả [90] dĩ độ nguy. Khủng tử kê lưu, lập xuân Quí tị phóng túng tội tù, ngũ cốc [91] kinh khởi, dân nhân hữu ưu, tật bệnh dục chí. Ngạ giả tung hoành, ngô chuyển [92] xung chàng Hán sự. Ngô dân văn chi, tự hữu chí khí, bỉ tự đống vô tính [93] tự. Nhân Hán tự thức, vạn dân kiến đoan trực thực tâm, nãi tri ngô sự. [94] Hợp tri thánh giả tập ngô ý, tà tâm, ngận tính vị ngã hà nhân; ngô dĩ [95] độ số, xuất hữu thời tiết nhi hóa. Tri ngô giả thiểu, phi ngô giả đa. [96] Lão tử biến hóa kinh. [97] Đại nghiệp bát niên, bát nguyệt, thập tứ nhật, Kinh Sinh, Vương Trù tả [98] dụng chỉ tứ trương [99] Huyền đô, Huyền đàn đạo sĩ phúc hiệu. [100] Trang Hoàng nhân. [101] Bí thư tỉnh tả.

Dịch nghĩa:

  1. Những từ có trước đất trời,

Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.

  1. Thung dung từ thủa thái sơ,

Khi còn chưa có bến bờ đục trong.

  1. Tịch nhiên tiêu sái, (5.) vô song,

Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.

Hai bề ẩn, hiện lại qua,

  1. Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.

Đục trong biến chuyển dòng đời,

Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.

  1. Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,

Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.

  1. Mượn nơi đất Sở giáng sinh,

Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.

Có văn tam ngũ rõ ràng,

Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;

  1. Mũi hai sống, lỗ tai ba,
  2. Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.

Thiên nhiên vô dục tính trời,

Vô vi ấy chính nết người ở ăn.

Giúp trời lại giúp thánh quân.

  1. Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.

Đời người ẩn ước ly kỳ,

Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.

  1. Gặp khi vận nước nhiễu nhương,

Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,

Giã từ nước Sở, lánh trần,

Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,

Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,

  1. Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.

Tinh hoa trời đất gồm thâu.

  1. Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.

Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,

  1. Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.

Âm dương mặc sức phân phôi,

Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.

  1. Hư vô chưởng quản mặc tình,

Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.

Bao trùm khắp tám phương trời,

Đất thời lo chở, trời thời lo treo.

  1. Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,

Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.

Chư thần Lục Giáp nương hơi,

Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.

  1. Tứ thời chuyển biến thong dong,

Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.

Tiêu phù cầm gọn nơi tay,

Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.

  1. Lão quân sáng tối tùy nghi

Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.

  1. Khuất thân, tiến thoái mặc tình,
  2. Không gì thoát khỏi uy linh của người.

Đi vào nước lửa như chơi,

Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.

  1. Gặp cơn bức bách chẳng sao,

Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.

Trường sinh chẳng có hạn kỳ,

  1. Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.

Sánh đôi mà vẫn đơn thân,

Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.

Ngài luôn gần gũi con người.

  1. Không ai có thể sánh tài vô vi,

Chẳng ai mà chẳng phải tùy,

Người người đều dõi bước đi của ngài.

Hành vi Lão tử để đời,

  1. Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.
  2. Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,

Những điều biến hóa mung lung khôn lường.

Biết ta chín kiếp nhân lương,

  1. Đời ta mà biết lối đường ta hay.
  2. [Không dịch][52]

Ta là chín vị sau đây.

30-38

Họ Tên Tự

1. Lý 李

2. Lý 李

3. Lý 李

4. Lý 李

5. Lý 李

6. Lý 李

7. Lý 李

8. Lý 李

9. Lý 李

Lão Đam 老聃

Trung 中

Thạch 石

Thạch 石

Trạch 宅

Nguyên 元

Nguyện 願

Đức 德

Nguyên Dương 元陽

Bá Dương 伯 陽

Bá Quang 伯 光

Tử Quang 子 光

Tử Văn 子 文

Tử Trường 子 長

Tử Thủy 子 始

Tử Sinh 子 生

Bá Văn 伯 文

  1. Ngài sinh cùng với Hư vô,

Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.

Khi lui, nguyên thể tài bồi,

  1. Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.
  2. Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử,[53]
  3. Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;[54]
  4. Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,[55]
  5. Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người.[56]
  6. Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,[57]
  7. Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;[58]
  8. Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,[59]
  9. Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài.[60]
  10. Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,[61]
  11. Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung.[62]
  12. Đời Văn, ngài thủ thư tàng,[63]
  13. Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành.[64]
  14. Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,[65]
  15. Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;[66]

Trong lòng mẹ bảy hai năm,

  1. Ra đời mới gọi tên bằng Lý Đam.

Ngài cũng có Bá Dương là tự.

Và từng là quản thủ thư tàng;

Bảy trăm tuế nguyệt chứa chan,

  1. Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.

Lại gặp khi Bình vương ngoan cố.

Đạo đức trời tới độ suy vi.

  1. Ngài liền bỏ Sở ra đi,

Băng chừng tây tiến lâm ly dặm trường.

  1. Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,

Đạo đức kinh ngài ký thác cho;

  1. Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,[67]
  2. Tên ngài Phù Khánh[68]thời Hồ nhiễu nhương.
  3. Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,[69]

(Mỗi khi cần, ngài mỗi hiện ra;)

  1. Năm đầu niên hiệu Dương Gia,[70]

Thành đô núi Tước hiện ra đường hoàng.

  1. Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,

Đỉnh non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa. [71]

  1. Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,

Nơi đền Bạch Lộc hiện ra với đời. [72]

  1. Kiến Hòa vào khoảng năm 2,

Lão quân lại hiện cửa ngoài Thành đô. [73]

  1. Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,

Đầu non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân. [74]

Những là lẳng lặng trầm ngâm,

Dẫu ai gạn hỏi cũng không trả lời.

  1. Đời sau lập miếu thờ ngài,

Xưng ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh. [75]

  1. Ngài rằng:

Ta vui trong cảnh Thái thanh,

Quang hoa xử sự, tinh thành trị dân.

  1. Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,

Lấy tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.

Chu du bốn biển phiêu khinh,

Tứ thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.

Dòng đời khinh khoát vượt qua,

  1. Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.

Tam thai ta đội làm khăn,

Áo ta đã được dệt bằng Hư vô.

Phàm phu sao biết được ta,

  1. Tử sinh, phản phục, biết là bao phen.

Dân ta đông đảo muôn miền,

Phàm phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.

  1. Quang huy thu liễm vào trong,

Tinh thần sung mãn bởi không hao gầy.

Ai về ta tưởng đêm ngày,

  1. Ta luôn phù trợ phút giây chẳng rời.

Ai mà mơ đến ta hoài,

Hiển linh, ta sẽ vì người hiện ra.

Cơ đồ nhà Hán phôi pha,

  1. Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.

Phàm phu nhảy nhót dể duôi,

Nhưng mà trí giả nghe lời bảo ban.

Đất trời nghiêng ngửa nguy nàn,

  1. Ta bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.

Nay ta lựa chọn hiền tài,

  1. Người hay người phải, ta thời nhận ra.

Những ai mà muốn tìm ta,

  1. Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,

Tộâi khiên phải biết tự tân,

Làm người tri kỷ, tri thân mới là.

Ta đây chẳng ở đâu xa,

Thần người cùng với Thần ta khác nào.

  1. Cha con tưởng nhớ gần sao,

Bằng không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.

Chớ nên biếng nhác buông tuồng,

  1. Biếng lười, thần có cũng nhường như không.

Theo ta mau mắn mới mong,

Mới mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.

Trắng, xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,

  1. Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.

Sinh ta, màu đỏ ấy công,

Ta sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.

  1. Rượu nồng người chớ có ham,

Để ta đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.

Tu thân người phải nên lo,

Tâm thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!

  1. Vô vi, vô dục thảnh thơi,

Lầm than, hoạn nạn có đời nào đâu!

Cốc thần khăng khít trước sau,

Con đường giải thoát cơ mầu là đây.

  1. Lìa ta, suy tưởng dông dài,

Tâm thần lạc lõng, càng ngày càng mê.

Cương nhu cân nhắc mọi bề,

Hai chiều thành bại, đi về do ta.

Tả biên sinh khí mới là,

  1. Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.

Giữa là Hoàng khí mung lung,

Nguyên dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.

  1. Khuyên chư đồng tử sớm chiều,

Tiềm tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.

  1. Ta đà căn dặn từ lâu,

Kim tinh lệch lạc thì cầu tới ta.

Mau mau rong ruổi mới là,

  1. Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.

Chớ đừng bịn rịn tơ vương,

Xuân ngày Quí tỵ nên thương thả tù.

  1. Đâu đâu dân cũng âu lo,

Bệnh tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.

Ta nay hoán cải mối giường,

  1. Cơ đồ nhà Hán tan hoang từ rày.

Dân ta đã biết, đã hay,

Tránh điều vạ gió, tai bay sá nào.

  1. Những người thành khẩn thanh cao,

Việc ta thông tỏ tơ hào khó chi.

  1. Ý ta hiền thánh minh tri,

Phàm phu nào biết vân vi gót đầu.

  1. Bao lần giáng thế trước sau,

Theo dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.

Hiểu ta hỏi mấy thánh hiền,

Chê ta, vô số phàm hèn bấy nay.

Khảo sát ba tiểu sử nói trên ta có những nhận xét sau đây:

  1. Càng theo đà thời gian, tiểu sử Lão tử càng trở nên huyền thoại.

- Tiểu sử do Tư Mã Thiên (145-86 trước công nguyên) gần thực tế nhất, mô tả Lão tử như một ẩn sĩ, một hiền triết có gia đình con cái như mọi người, bất quá là sống lâu hơn người thường, biết đường tu luyện hơn người thường.

- Lão tử minh, do Biên Thiều tạc năm 165 công nguyên, đã thấy có nhiều phần huyền thoại.

- Lão tử biến hóa kinh, viết khoảng năm 612 công nguyên, đã thấy đầy rẫy những huyền thoại.

Ta sẽ toát lược những huyền thoại ấy và giải thích những huyền thoại ấy. Tất cả những huyền thoại về Lão tử có thể toát lược như sau:

- Ngài có một cuộc thai sinh kỳ bí: ở trong lòng mẹ bảy mươi hai năm, lúc sinh ra đã bạc đầu. [76]

- Ngài có trước trời đất, sống vĩnh cửu cùng với đất trời.

- Ngài là Thượng đế giáng trần nhiều lần từ xưa tới nay để cứu độ chúng sinh.

Về cuộc thai sinh kỳ bí của Lão tử, ta không thấy có gì lạ, vì dân gian xưa nay đều thêu dệt rất nhiều huyền thoại quanh cuộc thai sinh của vị giáo chủ mình.

  1. Một đặc điểm khác trong tiểu sử của đức Lão tử cho thấy rằng ngài có từ trước đất trời, sống vĩnh cửu cùng với đất trời.

Trong Lão tử minh ta thấy những câu:

«Ngài cùng với hỗn nguyên ly hợp,

Với tam quang ngài vượt thời gian.»... [77]

«Rằng ngài trước đất trời sinh xuất,

Chính vì ngài chẳng mất lòng son.

Thiên chân giữ được vẹn tròn,

Cho nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.» [78]

Lão tử biến hóa kinh viết:

«Những từ có trước đất trời,

Vui trong Thái thủy tuyệt vời ngao du.»... [79]

«Trường sinh chẳng có hạn kỳ,

Tiêu thân diệt thể, quyền uy vô ngần.» [80]

Khảo Trang tử ta cũng thấy có câu:

«Ta và trời đất cùng sinh,

Ta và vạn vật sự tình chẳng hai.» [81]

Khảo Phúc âm, ta thấy chúa Jesus xưng mình có trước vua David. [82]

Tất cả những sự kiện trên chỉ có thể hiểu được nếu chúng ta chấp nhận con người có:

- Phần Thiên, phần Thần, bất sinh bất tử mà Lão tử gọi là Đạo, nho gia gọi là Thái cực, Bà la môn gọi là Atman, Phật giáo gọi là Chân như hay Bản lai diện mục.

- Phần nhân, phần tâm, phần hồn, có sinh, có tử mà ta thường gọi là phàm tâm, hay tiểu ngã, vọng ngã.

Các huyền thoại trên cho thấy xưa nay con người đều mơ ước bất tử chính là vì đã thấu đáo được sự huyền nhiệm ấy. Còn dân gian thì chỉ hiểu lơ mơ vấn đề, qua trung gian các huyền thoại còn sót lại.

  1. Một huyền thoại đáng chú ý hơn nữa là từ thời nhà Hán. Lão tử đã được coi như là Thượng đế, chẳng những giáng trần một lần mà đã giáng trần nhiều lần.

Khảo lịch sử Trung Hoa ta thấy từ thời thượng cổ các vua chúa đã tế lễ Thượng đế [83] hoặc Thái nhất ở Nam Giao. Năm 123, đời Hán Vũ đế ta thấy Mậu Kỵ 謬忌 người đất Bạc 亳 đã làm sớ tâu xin Hán Vũ đế thờ Thái nhất. Mậu Kỵ tâu rằng Thái nhất trọng hơn chư thần. Ngũ đế chỉ là những cộng sự viên của Thái nhất. [84]

Lịch sử ghi rằng: sáng ngày đông chí năm 113, Vũ đế dùng lễ Giao để tế Thái nhất. [85]

Khảo thư tịch đạo Lão ta lại thấy rằng Ngọc Hoàng Thượng đế thực ra có ba ngôi, tuy danh hiệu khác nhau nhưng đồng một bản thể. [86] Ba ngôi đó là:

(1) Nguyên thủy Thiên tôn, hay Thiên bảo quân, hay Ngọc hoàng ở cung Ngọc thanh.

(2) Linh bảo Thiên tôn hay Linh bảo quân ở cung Thượng thanh.

(3) Thần bảo Thiên tôn hay Lý Lão quân hay Lão tử ở cung Thái thanh.

Linh mục Wieger cho rằng quan niệm «tam vị nhất thể» của đạo Lão này đã được vay mượn của Thiên chúa giáo, qua trung gian Giáo phái Nestoriens. Giáo phái này có lẽ đã truyền sang Trung Quốc từ đời Đường. Đời Đường, ở Chu Ốc 周 屋 cách Tây Nam Phủ 100 dặm có một dòng tu Nestoriens. Năm 781 họ đã dựng một bi ký, mà gần đây các nhà khảo cổ đã đào được.

Sự giải thích của Wieger mới đầu tưởng hữu lý, nhưng rút cuộc cũng không ổn, vì Nestorius sinh khoảng năm 380, chết khoảng năm 440 công nguyên, mà Lão tử đã được coi như là Thượng đế giáng trần từ thời nhà Hán, ít nhất là từ năm 165 công nguyên, như Lão tử minh đã ghi.

Đọc quyển La Divinisation de Lao Tseu dans le Taoïsme des Han của Anna K. Seidel do École Française d’Extrême Orient xuất bản năm 1969 với những tài liệu chứng minh một cách hết sức hùng hồn, ta liền thấy lập luận của Wieger không đứng vững. Ta nên nhớ đạo Lão bắt đầu thịnh từ thời Hán Vũ đế (140-87 trước công nguyên). Còn giáo phái Nestorianisme chỉ được truyền vào Trung Hoa khoảng năm 635 đời Đường Thái tông. [87] Như vậy muốn hiểu sự kiện «Lão tử được coi là một phân thân của Thượng đế giáng trần» cho đứng đắn, ta phải giải thích như sau:

(1) Xưa nay các thượng trí, thượng nhân đều tin rằng Trời chẳng xa người.

(2) Thiên đạo hay huyền học, chỉ cốt dạy người chân lý thiết yếu ấy.

(3) Thánh nhân, chân nhân là những người đã sống phối kết với Thượng đế, vì thế nên được đồng hóa với Trời. Huyền thoại về Lão tử ở Trung Hoa là một bằng cứ. Huyền thoại về Krishna trong Bhagavad-Gita là một bằng cứ khác. Các nhà huyền học Hồi giáo cũng thường xưng mình là Chân lý, là Thượng đế. Al-Hallaj, một thánh nhân Hồi giáo thường xưng mình là Chân lý, là Trời nên đã bị cầm tù từ năm 915 đến ngày 23 tháng 3 năm 922 thì bị xử tử vì tội dám phối hợp lẫn lộn trời người (confondre le pin et l’humain) gây hoang mang cho mọi người. [88]

Al-Hallaj đã nói: «Ta là đấng ta yêu, Đấng ta yêu là ta. Chúng ta là hai thần trong một xác. Nếu bạn thấy ta bạn sẽ thấy ngài, nếu bạn thấy ngài, bạn sẽ thấy ta.» Ta có thể dịch thành thơ như sau:

Ta cùng với đấng ta yêu,

Hai đàng là một, khôn chiều qua phân.

Một thân mà có hai thần,

Thấy ta, thấy Chúa cũng ngần ấy thôi. [89]

Kỳ lạ thay những lời lẽ này có âm hưởng như lời lẽ trong Phúc âm Jean: «Ai đã thấy ta, tức là thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi? Ngươi, há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta hay sao?» [90]

Sự tháo gỡ những huyền thoại về Lão tử, cho ta trông thấy rõ căn cơ con người, mà Lão tử là một tượng trưng, và định mệnh con người, mà Lão tử là một trong những người đã thực hiện được. Nó cũng giúp ta hiểu rõ nhiều huyền thoại của các đạo giáo thế giới. Bàn cãi rộng hơn cũng không lợi gì thêm. Ta có thể tạm kết thúc bằng một lời trong sách Khải huyền (Apocalypse): «Kẻ nào thắng, ta sẽ cho ngồi với ta trên ngôi ta, như chính ta đã thắng và ngồi với Cha ta trên ngôi Ngài.» [91]

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh