Đường Vào Triết Học Và Đạo Học: Chương 6. Luật Trời, Luật Người

ĐƯỜNG VÀO TRIẾT HỌC VÀ ĐẠO HỌC: CHƯƠNG 6. LUẬT TRỜI, LUẬT NGƯỜI

(Hay luật tự nhiênluật nhân tạo)

Đối với đại đa số, phân biệt đâu là luật Trời, đâu là luật người, là một vấn đề chẳng cần phải đặt ra. Tuy nhiên, đối với tôi, chuyện này đã làm tôi băn khoăn không biết bao nhiêu là năm tháng. Sau đây là nhưng cảm nghĩ riêng tư của tôi về vấn đề này. Tôi sẽ hết sức thành khẩn trình bày những băn khoăn, thao thức của tôi, những nhận xét riêng tư của tôi. Mong sẽ được sự thông cảm của quí vị. Những điều tôi sẽ trình bày, tuyệt đối không có một ý gì đả kích một ai, một tôn giáo nào, mà chỉ cốt là đi tìm Chân, Thiện, Mỹ.

Sự phân biệt luật Trời, luật người đã manh nha nơi tôi từ mấy chục năm nay, từ khi tôi khảo về chữ Lễ của Khổng giáo. Khi mới bắt đầu nghiên cứu đạo Khổng, tôi cứ nghĩ Lễ là Lễ nghi, Lễ phép. Dần dà, tôi mới hiểu Lễ chính là định luật thiên nhiên, mà tôi gọi là luật Trời, ý Trời.

Tiến lên một bước nữa, tôi suy ra rằng nếu luật thiên nhiên, là luật Trời, là ý Trời, thì nó phải vĩnh cửu, nó sẽ không có biên cương bờ cõi, và nó sẽ chi phối vũ trụ, vạn hữu, chứ không là sở hữu của một đạo giáo nào. Tôi sẽ dần dần chứng minh những tiêu điểm đã nêu trên...

Định luật thiên nhiên, hay định luật tự nhiên được đổi tên tùy theo mỗi đạo giáo.

Khổng giáo gọi đó là Lễ.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Phật giáo gọi đó là DHAMMA (PHÁP)

Bà La Môn gọi đó là RTA.

Bái hỏa giáo gọi đó là ASHA.

Nếu cần phải dùng từ ngữ tôn giáo Tây phương, tôi sẽ gọi định luật tự nhiên (natural laws) là ý Chúa, ý Trời (God's will), là luật Trời (pine laws). Có thể đây lại là một nhận định riêng tư của tôi, vì nhiều người sẽ cho rằng: định luật tự nhiên (natural laws) là thấp; định luật siêu nhiên (supernatural laws) mới là cao. Đối với tôi, nếu đã chấp nhận rằng định luật tự nhiên là định luật Trời, là ý Trời, thì sẽ không còn có chuyện định luật siêu nhiên nữa. Thế gọi là CHÍNH DANH!

Thánh kinh Công Giáo cũng cho rằng Luật Trời là những định luật vĩnh cửu: «Fidelia omnia mandata ejus, confirmata in saeculum saeculi, facta in veritate et aequitate.» (Thánh Vịnh 111, 110, 8). Nghĩa là: «LUẬT NGÀI tín thành muôn kiếp, lập ra trong chân lý và công bình.» Nếu đã vậy, chúng không thể thay đổi được.

«Luật Trời là đuốc sáng, là ánh sáng.» (Quia mandatum lucerna est, et lex lux) (Prov. 6, 23).

«Giữ Luật Trời là giữ hồn mình.» (Qui custodit mandatum, custodit animam suam) (Prov. 19, 16), v.v.

Thực ra, ngày nay người ta không còn biết thế nào là Luật Trời nữa.

Hiểu được thế nào là Lễ, thế nào là định luật của trời đất, ta mới thấy tội nghiệp cho ông Khổng. Thực vậy suốt đời, ông đã đi tìm những định luật đất trời, để cho mình theo, để cho người theo, để cho quốc gia, xã hội theo; mà người ta không biết chuyện đó; không nhận ra được sự đóng góp lớn lao của ông, mà cứ tưởng rằng đạo Khổng bày ra nhiều lễ nghi phiền tạp, rắc rối. Người ta chỉ hiểu LỄ là LỄ NGHI, chứ không biết LỄ là ĐỊNH LUẬT ĐẤT TRỜI. Nếu đã không hiểu LỄ là ĐỊNH LUẬT ĐẤT TRỜI, thì dĩ nhiên sẽ không hiểu được quẻ LÝ, vì quẻ LÝ cốt dạy con người phải sống thuận theo định luật của trời đất. Gần đây đọc bài «Tìm về cái gốc của Nhân văn Việt Nam: Gia đình và phúc đức», đăng trong Đất Nước Tôi, nơi trang 10, tôi rất mừng vì thấy ông bạn Cao Thế Dung, cũng đã hiểu LỄ là định luật tự nhiên, định luật trời đất. ông viết: «Lễ như là một cửa lớn mà con người tìm đến thiên đạo để sống hòa thuận với tình người. Vì thế thánh nhân cho rằng người phải biết LỄ.

«Quốc phá, gia vong, nhân tâm ly tán, chỉ vì con người đã không biết sống theo LỄ, tức là theo luật tắc của trời Đất, của nhân sinh...»

Tôi hiểu được LỄ là định luật trời đất, có lẽ một phần cũng nhờ công trình khảo cứu của Joseph Needham, nhất là khi đọc các trang từ 518 đến 538 quyển 2 của bộ Science and Civilisation in China của ông.

Trong thiên khảo luận về luật Trời mà ông gọi là natural law (lex naturalis), và luật người mà ông gọi là positive law, ông đã viện dẫn các tác giả trứ danh như Aristotle, Cicero, và Thomas Aquinas.

Aristotle (384-322 B.C.) gọi luật tự nhiên là NATURAL (hay PHYSICON); luật người là luật qui ước hay nhân tạo (CONVENTIONAL hay NOMIKON). [1]

Cicero (106-43 B.C.) cho rằng định luật tự nhiên là định luật Trời, cố dạy con người làm điều hay, tránh điều dở. [2]

Thánh Thomas Aquinas (1225-1274) cho rằng định luật thiên nhiên chính là thiên lý vĩnh cửu, chính là sự khôn ngoan của Trời, hướng dẫn mọi hoạt động, mọi biến chuyển. [3]

Đến đây, nếu ta dùng từ ngữ KHỔNG GIÁO, ta sẽ gọi:

ĐỊNH LUẬT TỰ NHIÊN, ĐỊNH LUẬT TRỜI ĐẤT là LỄ.

ĐỊNH LUẬT NHÂN TẠO là LUẬT.

ĐỊNH LUẬT TỰ NHIÊN là những định luật vĩnh cửu, không có màu da, sắc áo, không lệ thuộc không gian, thời gian.. Những định luật tự nhiên đã được qui định để vũ trụ biến hóa có lớp lang tiết tấu, để quần sinh sống trong an bình trật tự, để con người sống sung sướng, khoẻ mạnh; để xã hội loài người sống thượng hòa hạ mục, kính trọng lẫn nhau, yêu thương lẫn nhau, hoà hài, liên đới, cộng tác với nhau, để phát triển mọi tiềm năng, tiềm lực mình, cho tới vô hạn định. Luật thiên nhiên có mục đích bảo đảm hạnh phúc con người. Vì các định luật tự nhiên vĩnh cửu và phổ quát, nên không lệ thuộc vào một vị giáo chủ nào, một đạo giáo nào. Các vị giáo chủ xưa này chỉ là những người có công suy diễn ra ít nhiều định luật tự nhiên đó mà thôi. Khổng tử là một vị giáo chủ đã dày công đi tìm những định luật tự nhiên mà ông gọi là LỄ, lại cũng đã vạch cho chúng ta thấy cung cách ông đã dùng để đi tìm định luật đất trời. Lát nữa chúng ta sẽ bàn thêm.

Còn LUẬT NHÂN TẠO là những luật mà mỗi một đạo giáo, mỗi một chính thể, mỗi một quốc gia lập ra để bắt những người dưới quyền mình tuân giữ. Định luật nhân tạo có sinh, có tử, có không gian, thời gian, có biên cương, bờ cõi. Giữ những định luật ấy, nhiều khi cũng cần thiết để giữ trật tự xã hội, giữ hòa khí với tha nhân; nhưng nhiều người trong thâm tâm càng ngày càng cảm thấy nó phi lý, và ngột ngạt. Những định luật nhân tạo này đã được lập ra do những người đương quyền, hoặc là do các đạo giáo trong thiên hạ. Nó có mục đích lồng con người vào trong những khuôn khổ cố định, bất chấp sự đau khổ của con người, bất chấp sự an nguy của cá nhân. Nó chỉ đòi hỏi cá nhân phải tùng phục, còn chuyện đau, hay khổ; bệnh hay hoạn, nó không bao giờ nghĩ tới., vì luật nhân tạo được lập ra là vì lợi ích của giáo đoàn, lợi ích của đảng đoàn, chứ đâu phải vì lợi ích của cá nhân. Có một điều hết sức lạ là nhiều khi những ĐỊNH LUẬT NHÂN TẠO này lại được thoa son, vẽ phấn, để được tôn vinh lên thành ĐỊNH LUẬT TRỜI. Nó có thể được ghi thành luật Trời ngay vào trong các thánh thư, thành thử càng ngày vàng thau càng trở nên lẫn lộn, quần chúng chẳng còn biết đâu là luật trời, đâu là luật người nữa.

Tôi quen một ông bạn Việt Nam, một hôm đến tôi chơi, và nói cần phẩi giữ luật Trời. Ông còn nói ngạn ngữ Việt có câu: «Biết luật Trời, mười đời không khó.» Tôi thấy đó là điều rất lạ. Ông không phải là triết gia, nhưng nhờ suy tư mà tìm ra được như vậy. Thật là hiếm có.

Khi ta nắm được những nguyên tắc này, ta sẽ thấy có rất nhiều luật tuy đã được ghi chép trong thánh kinh, nhưng vẫn là luật qui ước, nhân tạo.

Năm 1960, tôi đã có dịp nhận định ra những định luật nhân tạo ấy. Số là tôi được cử đi dự Hội Nghị Quân Y quốc tế tại Teheran (Iran). Tôi đến Teheran nhằm đúng ngày Thứ Sáu. Quang cảnh đường xá hôm ấy vắng teo. Tôi hỏi tại sao? Người Teheran cho biết ngày Thứ Sáu trong tuần là ngày lễ nghỉ. Họ nói tiếp: Thiên Chúa giáo nghỉ Chủ Nhật; Do Thái giáo nghỉ Thứ Bảy; Hồi giáo chúng tôi nghỉ Thứ Sáu. Lúc ấy, tôi lập tức nhận ngay ra rằng nghỉ Thứ Sáu, Thứ Bảy, hay Chủ Nhật, chỉ là vấn đề qui ước, tương đối, nhân tạo. Thế rồi, thả hồn theo mộng mơ, tôi ước muốn được làm một nhà ngoại giao sống ở nước Hồi giáo, vì tôi mỗi tuần được nghỉ những 3 ngày: thứ 6, thứ 7, và Chủ Nhật.

Tôi đi thăm đền thờ Hồi giáo thấy không có ảnh tượng; thăm đền thờ Do Thái giáo, thấy không có ảnh tượng; thăm các nhà thờ Tin Lành chỉ thấy thánh giá trần, không ảnh tượng; nhưng vào các nhà thờ Công Giáo bên Đông, cũng như bên Tây thấy đầy ảnh tượng. Tôi hỏi người Do Thái tại sao như vậy, thì họ cho biết điều răn thứ hai cấm thờ ảnh tượng; điều răn thứ ba giữ ngày Thứ Bảy. Tôi hỏi người Công giáo tại sao làm vậy, thì được trả lời: Chúng tôi giữ ngày Chủ Nhật, vì ngày Chủ Nhật là ngày chúa sống lại; chúng tôi thờ kính ảnh tượng, vì sau khi Chúa xuống thế làm người, mang hình hài vật chất, thì thờ ảnh tượng, hay nói cho đúng hơn, «KÍNH» ảnh tượng cũng không sao. Nếu vậy, thì những giới răn Chúa dẫu là ghi trong Kinh Thánh (Exodus 20,4- 8; Deuteronomy 5, 8- 12), nhiều khi vẫn là luật người, và người Âu Châu ít ra đã bỏ đi hai điều răn trong mười điều răn Thiên Chúa. ấy là chưa kể đến vô số luật khác đã ghi trong Leviticus, như cấm ăn thịt lợn (Leviticus 11,7), cấm uống máu (Leviticus 17, 10- 11; 13- 14), con trai sinh ra được tám ngày phải cắt bì (Lev.12, 3). Sau này, Thiên Chúa Giáo không giữ những giới luật đó nữa, và cho đó là luật Moses chỉ ràng buộc dân Do Thái, mặc dầu Kinh thánh ghi rõ rằng: «Ta là Yahve, các ngươi phải giữ luật ta, và phong tục ta truyền. Ai giữ, sẽ được sống.» (Leviticus, 18:4.- 19:37); mặc dầu chúa Jesus đã phán quyết rằng: «Đừng tưởng ta đến để bãi bỏ lề luật hay các tiên tri. Ta đến không phải để bãi bỏ, mà là để làm trọn. Quả thật, ta bảo các ngươi, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm, một phảy trong Lề luật cũng chẳng thể bỏ qua.» (Mat. 5,17- 18). Tôi không biết những người theo giáo phái Chứng Nhân Đấng Jehovah có cắt bì không (tôi chắc là không); có ăn thịt heo không (tôi chắc là có), nhưng rắc rối là họ nhất định không chịu cho truyền máu, mặc dù là nguy cơ đến tính mệnh, để giữ trọn lời Kinh thánh trên. Tội nhất là mấy ông bác sĩ, nhiều khi phải xin án lệnh của tòa mới dám truyền máu. Khi nào tôi gặp họ lại, tôi sẽ hỏi kỹ họ xem họ có cắt bì cho các con trai họ không, xem họ có mua thịt heo ở các siêu thị không, hay là họ chỉ giữ luật có một vài phần.

Tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh Day Adventists), vì muốn giữ ngày Thứ Bảy, và không giết người, theo đúng giới răn Thiên Chúa, nên dẫu có đi lính, cũng không chịu mang súng, và nhất định nghỉ Thứ Bảy thay vì Chủ Nhật. Quân đội Âu Mỹ rất khổ tâm, khi phải đối phó với họ.

Về vấn đề hôn nhân, Do Thái giáo không cấm lấy nhiều vợ. Bằng chứng là Abraham có 2 bà; Jacob có hai bà; vua David có nhiều vợ; còn vua Salomon thì có tới 700 vợ hàng vương tước, và 300 cung tần (I. Kings XI,1- 3). Công giáo chỉ cho phép lấy một vợ. Hồi giáo cho phép lấy tới 4 vợ, miễn là thương yêu và cung phụng bốn bà đồng đều nhau .[4] Riêng Giáo Chủ Mohammed, Ngài có tới 7 bà: Hadigah, Sauda, Ayeshah (con của Abu Behr), Hafza (con Omar), Zainab (nguyên là vợ của một tín đồ Hồi giáo bị giết ở Bedr), Zainab (nguyên là em gái họ ông, và cũng nguyên là vợ của một người con trai nuôi ông, tên là Zaid), Mary. [5] Giáo phái Mormons trước đây cho phép lấy nhiều vợ, nhưng sau bị chính quyền Mỹ cấm đoán, nên đành phải bãi bỏ giáo luật này. Nhưng nếu ăn vụng mà biết chùi mép, thì chắc giáo đoàn vẫn khoan xá. Ở Á Đông, thì chuyện năm thê, bảy thiếp trước đây là chuyện thường. Chẳng có đạo giáo nào để tâm cấm đoán. Nhân loại ngày nay có khuynh hướng «một vợ, một chồng», và cho phép ly dị khi cơm không lành, canh không ngọt. Phải chăng đây là một giải pháp đẹp đẽ nhất? Lại còn có giáo luật nộp 10% lương cho Giáo Hội. Luật này được ghi nhiều nơi trong Kinh Thánh (Lev 27:31.- Nu 18:24- 26; De 12:6; 2Ch 31:12; Am 4:4; Mal 3:8; Neh 10:37- 38; Lu 18:12 v.v...). Thời Trung cổ Giáo hội Công giáo cũng theo luật này, nhưng ngày nay thì không còn theo nữa. Còn các giáo phái Tin Lành khác, hay giáo phái Mormons thì áp dụng hầu như triệt để. Có một thống kê cho rằng giáo phái Mormons nay hiện có 27 tỉ bạc. Tuy nhiên cũng phải công nhận rằng khi một tín đồ giáo phái này bị thất nghiệp, thì giáo hội cũng giúp đỡ hẳn hoi... (Xem các loại Tự điển đạo và đời, nơi chữ Tithe).

Nói đến những luật dạy kiêng cữ, ta cũng phải nói tới Hồi giáo, và Ấn giáo. Hồi giáo kiêng ăn thịt heo. Ấn giáo kiêng ăn thịt bò. Bò ở Ấn Độ là những thứ bò đẻ bọc điều, y như chó, mèo ở Mỹ. Bò có một địa vị rất khả quan trong xã hội Ấn Độ. Bò có quyền đi nghênh ngang trong các phố xá đông người giữa các đô thị. Mọi người không ai được động chạm tới! Đi xe, thì liệu mà tránh. Đụng người may ra còn không sao; chứ đụng bò chắc bị dân chúng phẫn nộ, đánh cho chết...

Chính vì vậy mà như tôi đã nói trên, các định luật Trời đất thực ra đã không ghi tạc ở nơi bia đá bên ngoài, không ghi tạc toàn phần vào trong sách vở, nhưng đã ghi tạc ngay trong cơ cấu muôn loài, trong định luật vận chuyển biến thiên của muôn loài.

Khi con người còn ấu trĩ, sẽ tưởng rằng định luật trời được ghi trong thánh thư, được ghi tạc nơi bia đá. Nhưng khi con người đã khôn lớn sẽ thấy rằng định luật trời đất thực ra đã được ghi tạc trong tâm can con người. Có lẽ vì vậy mà tiên tri Jeremiah xưa đã viết: «Nhưng đây là giao ước mà ta sẽ ký với nhà Israel, trong ngày đó - sấm của Yahve- ta sẽ đặt lề luật ta trong tầng sâu bản thể họ, và ta sẽ viết luật ta trong lòng họ...» (Jeremiah,31,33). Dịch kinh cũng cho rằng khi con người tiến tới «thuần Dương», «thuần Kiền», sẽ nhìn thấy lề luật Trời: «Kiền Nguyên dụng cửu, nãi kiến Thiên tắc.» 乾 元 用 九,乃 見 天則 (Kiền, Văn Ngôn, Hào Dụng Cửu)

Kiền nguyên biến hóa xong rồi,

Bấy giờ sẽ thấy Luật trời hiện ra.

Luật trời đất thực ra đã gắn liền vào cơ cấu muôn loài, muôn vật, gắn vào cơ cấu quần sinh. Nếu theo đúng những định luật này, vũ trụ sẽ vần xoay, biến hóa theo đúng lớp lang, tiết tấu; xã hội loài người sẽ hưởng thanh bình, hạnh phúc; cá nhân sẽ được khỏe mạnh, sướng vui. Nếu không theo, tuy rằng chẳng đến nỗi trầm luân chín từng địa ngục, bị thiêu sinh muôn kiếp, nhưng sẽ đau ốm, sầu khổ, chết non, chết yểu, nếu là cá nhân; nếu là gia đình sẽ bất hòa, tan tác; nếu là quốc gia, xã hội sẽ loạn ly, điên đảo. Cứ nhìn vào tâm tư, vào thể xác, con người sẽ biết mình theo đúng định luật đất trời hay không; cứ nhìn vào tình trạng mỗi gia đình, sẽ biết gia đình đó có theo đúng định luật trời đất, nhân sinh hay không; cứ nhìn vào thực trạng mỗi quốc gia, sẽ biết ngay nó có theo đúng định luật đất trời hay không. Theo đúng tiêu chuẩn trên, thì những thể xác bệnh hoạn, những tâm hồn bệnh hoạn, những tâm hồn lúc nào cũng khắc khoải, cũng khao khát, cũng thèm muốn, cũng thờ thẫn, cũng hoang vắng, không thể nào nói được là mình đã và đang theo ý Chúa, ý Trời được...Thực là hết sức giản dị...

LUẬT TRỜI đã gắn liền vào cơ cấu muôn loài. Nhìn lên trời cao, ta thấy nhật nguyệt tinh cầu đều đi theo đúng những đường lối đã chỉ định cho nó. Nhờ vậy mà ta mới đoán trước được là nhật thực phải vào ngày 30, hay mồng 1; nguyệt thực phải vào ngày rằm. Ta mới biết được rằng ngày 15, hay 30 thủy triều sẽ lên cao nhất, và vào những ngày Thượng huyền (mồng 8 ta), hay Hạ huyền (23 ta), thủy triều sẽ thấp nhất. Ta mới mừng cho ai đi vượt biên vào tháng ba ta, vì lúc ấy biển lặng, gió êm. Ta thường nói: «Tháng ba, bà già đi biển.» Ta mới lo cho ai vượt biển vào tháng 9, tháng 10, vì lúc ấy dễ gặp phong ba, bão táp. Robinson Crusoe vượt biển cũng vào khoảng tháng 10, nên đã gặp bão, và phải sống nhiều ngày tháng trên hoang đảo...

Ông Trời hẳn phải là một nhà toán học đại tài. Ví dụ khoảng cách giữa các hành tinh và mặt trời đã được qui định như sau (định luật Bode):

Ta viết:

0, 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128 (các lũy thừa 2).

Đoạn nhân cho 3:

0, 3, 6, 12, 24, 48, 96, 192, 384.

Đoạn cộng với 4:

4, 7, 10, 16, 28, 52, 100, 196, 388.

Đoạn chia cho 10:

0.4; 0.7; 1; 1.6; 2.8; 5.2; 10; 19.6; 38.8.

Ta có đồ bản sau:

Tên hành tinh

Khoảng cách theo lối toán trên

Khoảng cách theo khoa học

Thủy tinh (Mercury)

0.4

0.3871

Kim tinh (Venus)

0.7

0.723

Trái đất

1

1 (*)

Hỏa tinh (Mars)

1.6

1.523

Ceres

2.8

2.77

Mộc tinh (Jupiter)

5.2

5.202

Thổ tinh (Saturn)

10

9.554

Thiên vương (Uranus)

19.6

19.21

Hải vương (Neptune)

38.8

30.10

(*) 1. là khoảng cách giữa trái đất và mặt trời: khoảng 150,000,000 km.

Đi thêm vào chi tiết, ta thấy:

- chu kỳ của Thủy tinh là 88 ngày;

- chu kỳ của Kim tinh là 224.7 ngày.

- chu kỳ Trái đất là 365.26 ngày

- chu kỳ Hỏa tinh là 687.0 ngày.

- chu kỳ Mộc tinh là 11.86 năm.

- chu kỳ Thổ tinh là 29.46 năm.

- chu kỳ của Uranus 84.0 năm.

- chu kỳ của Neptune là 164.8 năm.

- chu kỳ của Pluto là 247.7 năm.

Sự chuyển vận của các hành tinh quanh mặt trời, tuy có lúc nhanh, có lúc chậm, nhưng đều theo những qui luật hết sức chặt chẽ. Kepler đã tìm ra các qui luật này...

Khoa học càng ngày càng ra công tìm cho ra những định luật chi phối sự hỗ tương ảnh hưởng giữa con người và vũ trụ. Các bác sĩ Leinex và Gibbs đã tường trình trong Tạp chí Di Truyền Học (Journal of Heredity) rằng các làn sóng điện trong óc não con người có tương quan với các tuần trăng. Bác sĩ Leonard J. Ravitz, bệnh viện Veterans Bureau ở Downey, Illinois, đã cho thấy tính tình con ngưới thay đổi theo tuần trăng. Bác sĩ Hannah Hendrick, khi nghiên cứu về bệnh thần kinh, đã thấy rằng đàn ông vào bệnh viện khoảng mồng 2 ta mỗi tháng, còn đàn bà thì vào bệnh viện khoảng ngày rằm. [6] Rằm là ngày Âm suy, Dương thịnh; đầu hay cuối tháng là ngày Âm thịnh, Dương suy. Có cái lạ, là Nguyệt thực bao giờ cũng vào khoảng ngày rằm; còn Nhật thực bao giờ cũng vào ngày cuối tháng như đã nói ở trên. Cũng nên ghi nhận rằng mặt trời, mặt trăng và các hành tinh ảnh hưởng đến trái đất, đến con người là do TỪ TRƯỜNG, TỪ LỰC.

Càng ngày khoa học càng nhận thấy rằng, trong khắp hoàn vũ này, từ những giải ngân hà xa tít tắp, cho đến những hạt nguyên tử li ti, tất cả đề được chi phối bởi những định luật biến dịch, đều diễn biến có lớp lang, có chiều hướng, có nhịp điệu, tiết tấu, tất cả đều đồng tấu khúc nhạc thái hòa...

Thực đúng là:

Lạc hồng bất thị vô tình vật,

Hóa tác xuân nê, cánh hộ hoa.

Hồng rơi nào phải vô tình vật,

Tan biến trong bùn, lại giúp hoa...

Đời xưa hay nói: «Cửu cửu, càn khôn dĩ định.» 九 九 乾 坤 已 定 . Bây giờ ta thấy các con số chỉ thời gian đều chia chẵn cho 9.

4320 x 6 = 25.920 năm là số năm mặt trời dùng để trở về điểm Gamma trên vòng hoàng đạo, vào ngày Xuân phân.

4320 là số trung bình nhịp tim đập trong một giờ (72 x 60 phút = 4320)

4320 : 4 = 1080 là số trung bình nhịp thở trong 1 giờ.

4320 x 6 = 1080 x 24 = 25,920 là số trung bình nhịp thở trong 1 ngày.

4320 x 30 = 129,600 là một Nguyên của Thiệu Khang Tiết.

4320 x 1000 = 4,320,000 là một Maha Yuga hay Đại kiếp của Ấn Độ.

Các số trên cho thấy Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ tương ứng với nhau.

Bây giờ chúng ta cùng nhau đi vào con người, để đi tìm những định luật vĩnh cửu chi phối con người:

- Tứ chi bách hài con người bị chi phối bởi các định luật cơ học.

- Tạng phủ con người vừa bị chi phối bởi định luật cơ học, vừa bởi định luật hóa học. Khi co bóp, thì theo định luật cơ học; khi tiết ra các hóa chất như pepsin, secretin, v.v... thì theo định luật hóa học.

- Máu huyết con người bị chi phối bởi định luật hóa học: trong huyết tương chúng ta có không biết bao là khoáng chất, là hóa chất. Muốn khỏe mạnh, các hóa chất trong máu chỉ được quyền có một số lượng nhất định nào, ví dụ: bình thường, trong máu có:

70 - 100mg đường trong 100 phân khối máu.

150 - 280mg Cholesterol trong 100 phân khối máu.

3.0 - 7.0mg Uric acid trong 100 phân khối máu.

8 - 25mg Blood Urea Nitrogen trong 100cc máu.

8.5 - 10.5mg Calcium trong 100cc máu.

3.5 - 5.0 mEq Potassium trong 1 lít máu.

- Lượng đường lên quá cao làm cho con người bị bệnh đái đường.

- Lượng Cholesterol quá cao sẽ dễ gây ra các chứng tắc mạch máu tim.

- Uric acid quá cao là bị bệnh cốt khí.

- Blood Urea Nitrogen mà cao, là đã được chiếu khán để đi về Thiên quốc.

- Calcium quá thấp sẽ bị sẽ gây co giật; quá cao sẽ gây bệnh thận.

- Potassium dù thấp hay cao hơn thường cũng rất nguy hiểm cho tim.

Tôi có người quen, gặp thấy mặt mũi phờ phạc; hỏi ra mới biết là đang nhịn ăn, vì cholesterol «hơi» lên cao.

Một ông bạn tôi, trước kia rất thích «nhậu nhẹt», mới đây khoe sắp ăn chay để cho Acid Uric xuống.

- Thần kinh chúng ta chịu chi phối bởi các định luật hóa học và điện. Luồng thần kinh (nervous influx) được chạy trong các giây thần kinh, như điện chạy trong các giây điện. giữa các giây thần kinh thường cũng có những trạm biến điện, gọi là synapses. Thần kinh có thể tiết ra các chất neuro- transmittors như enkephalin, acetylcholin, adrenalin, endorphin v.v...

- Óc chất con người chịu các định luật từ- điện. Óc con người ngày nay khá giống các máy computers, các máy thu băng, có điều là tinh vi, linh lợi hơn nhiều.

- Tâm hồn con người chịu định luật của Từ (magnetism). Từ lực có ái, ố (attraction, repulsion), thì tâm hồn con người cũng có ái, ố. Người nào cũng phả ra những từ trường, những từ lực, từ tuyến. Những từ tuyến của mỗi người lại ảnh hưởng yêu ghét đến đồng bào, đồng chủng, đến muôn loài, đến vũ trụ muôn phương. Tu luyện là cốt làm tăng từ lực trong con người, để có nội công, nội lực, không còn bị ngoại cảnh cuốn lôi, hấp dẫn.

Trong chữ Hán, các chữ DUYÊN 緣, chữ TRIỀN 纏, chữ PHƯỢC 縛 đều có bộ MỊCH 糸 (nghĩa là «giây nhợ») ở bên trái. Tôi giải đó là NHỮNG TỪ TUYẾN. Và chúng ta có thể mô tả mối tình keo sơn của nhiều đôi trẻ như sau:

«Tơ duyên như thể xích thằng,

Một giây, một buộc, ai dằng cho ra.»

- Tâm Hồn, chúng ta còn chịu định luật TRỊ, và LOẠN. Tôi thường sánh tâm hồn với một loại KHÍ, tương đương như khí trời, có những hạt khí Dương, và những hạt khí Âm (positive and negative ions). Khi vui thì Khí tản mạn, thông sướng, khinh khoát; khi buồn thì Khí trở nên trì trệ, ù lì. Khi giận, thì Khí như bị gom tụ lại, như bị uất ức, không thông sướng; khi sợ hãi thì Khí tán loạn. Lúc quá giận dữ, thì Khí trong người chẳng khác gì những trận cuồng phong. Khí mà tán loạn, Khí mà bị dồn ép, Khí mà bị phá tán, sẽ rất có hại cho cơ thể. Cho nên ta thường nói: tức lộn ruột, lộn gan; giận đến thâm gan, tím ruột; hay hồn phi, phách tán; hồn lạc, phách xiêu.

Có biết vậy, mới hiểu thế nào là tâm bình, khí hòa!

- Thần 神 con người là Quang 光 , nên chịu định luật của Quang. Vả thần nương vào Khí 氣 , nên hễ Khí loạn thì Thần hôn. Tâm có bình, Khí có hòa, thì Thần mới minh, mới sáng. Thần quang còn chịu định luật Tụ và Tán. Thần mà tụ, mới linh, mới hiển; Thần mà tán, mà tản, thì chẳng có ra gì.

Người xưa có thơ:

Hướng tiền, thần tụ, đồng Vô cực,

Kim tán, vi trần mãn thế đồ.

Dục qui nguyên vị Hoàng Trung lý,

Nê Hoàn vạn vựng tốc hồi qui.

Dịch:

Khi xưa thần tụ, đồng Vô Cực,

Nay tán, trần ai ngập thế đồ.

Muốn về nguyên vị Hoàng Trung cũ,

Nê hoàn vạn vựng kíp hồi qui.

Từ mấy nghìn năm nay, Y Học Đông Phương chủ trương quân bình Âm Dương. Y học Âu Mỹ mới đây đã tìm ra cán cân Âm Dương trong con người mà họ gọi là pH. pH bình thường là 7.4 (pH 7.38 - pH 7.42). Cao hơn 7.42 là Âm trạng (Alkalosis); thấp hơn 7.38 là Dương trạng (Acidosis). pH > 7.50 là Âm trạng nặng; pH < 7.20 là Dương trạng nặng, có thể nguy hại đến tính mệnh. Một khi cán cân Âm Dương đã mất thăng bằng thời phổi và thận phải lo điều chỉnh lại tình hình (compensation). Y khoa cấp cứu hiện nay là đặt trọng tâm vào công trình lập lại thế quân bình Âm, Dương, đem pH về 7.4. Khi học về pH, tôi mới hiểu thấu đáo về Trung Dung, về Thái Hòa; về Thái quá, Bất cập; và về chủ trương Bổ, Tả; Bù Trừ; Ích, Tổn.

Suy ra thì tu tâm cũng chẳng qua là lập lại thế Thái Hòa, thế Quân Bình muôn thủa. Thảo nào mà nơi Chương Nhất Trung Dung đã viết:

Thiên địa vị yên,

Vạn vật dục yên.

Ước gì đạt thế Trung Hòa,

Ấm êm trời đất, âu ca muôn loài.

(Trí Trung Hòa)

Và tôi mới hiểu thấm thía câu của sách Hoàng Đế Nội Kinh: «Điềm đạm hư vô, tâm bình, khí hòa, tinh thần nội thủ, bệnh an tòng lai.» 恬 淡 虚 無 , 心 平 氣 和 , 精 神 内 守 , 病 安 從 來.

- Một định luật sinh lý khác chi phối sức khỏe con người là định luật THÔNG, TẮC. THÔNG SƯỚNG thời khỏe mạnh. Bế Tắc thời bệnh hoạn. Đông Y có câu: Thông tắc bất thống; thống tắc bất thông. Nghĩa là nếu mà kinh mạch trong người thông sướng, thì sẽ không có hiện tượng đau nhức. Đã đau nhức thời có bế tắc ở chỗ nào. Những bế tắc có thể xảy ra trong huyết mạch, trong kinh mạch, trong thần kinh. Khoa Chỉnh Xương bên Mỹ thường ưa nắn xương sống để giải tỏa các giây thần kinh có thể bị kẹt. ở Việt Nam có phong trào «vẫy, vẫy tay», một ngày mấy trăm lần; bên này có phong trào tập Thái Cực Quyền, cốt là để cho cơ thể thông sướng. Nếu quí vị đi sâu hơn vào võ công, vào đạo học, quí vị sẽ học thêm về khoa ma sát, về Bát Đoạn Cẩm, Thập Nhị Đoạn Cẩm, về Khí Công, về Công Phu đả thông Nhâm, Đốc. Nhưng xét cho cùng, tất cả cũng chỉ có mục đích làm cho cơ thể con người hoàn toàn thông sướng mà thôi.

Sau khi đã nắm được các qui luật thiên nhiên chi phối con người, ta sẽ:

- Chọn nơi ăn, chốn ở cho sạch sẽ, trong lành.

- Sẽ ăn uống điều hòa, tiết độ; vận động cho chừng mực.

- Đối với người cho thành khẩn, cho tôn kính, cho yêu thương.

- Đối với muôn loại cho từ bi, hỉ xả.

- Cố gắng dùng thời gian, hoàn cảnh trời ban cho mình để phát huy hết mọi tiềm năng tiềm lực của mình, để tiến tới Chân, Thiện, Mỹ.

Người La Mã xưa chủ trương phải sống theo định luật, vì định luật tự nhiên là định luật trời.

Người Âu Châu sau này không chấp nhận rằng định luật tự nhiên là định luật Trời, là thiên ý, nên đã chế thêm ra cái gọi là «định luật siêu nhiên». Tôi nghĩ rằng chính con người đã sáng tạo ra cái chiêu bài định luật siêu nhiên. Như vậy «siêu nhiên» lại trở thành «nhân tạo».

Có cái rất lạ, là con người rất bướng, không muốn sống theo tự nhiên.

Như cái cổ, Trời làm đã có ngữ, đã đẹp, nhưng có nơi người ta lại cố nong cho dài ra.

Chân do trời làm, người Trung Hoa chê là xấu, nên trong vòng hơn ngàn năm, các phụ nữ nhà giàu đã bó chân, để có «gót sen ba tấc». Nhưng nếu chúng ta vô tư mà nhìn vào cái gót sen ba tấc ấy, ta sẽ thấy đó là một thứ chân què, chân thọt. Và sau khi ngắm gót sen, có lẽ chúng ta sẽ «nước dương muốn rảy nguội dần lửa duyên», và biết đâu lại chẳng thí phát qui y, rồi biết đâu lại chẳng thành một Bồ Tát tương lai? Ngày nay, may thay, tục lệ này đã trôi vào dĩ vãng xa xăm.

Cũng có dân lại ép cho cái đầu nó thon lên, nhọn lên, có vậy mới đẹp.

Cũng có dân lại nhét cái đĩa vào môi dưới. Nhìn mỹ nhân với cái đĩa cài môi dưới, tôi chắc người mình sẽ chẳng còn muốn ăn cơm!

Có dân lại bắt khi cô gái đã có ý trung nhân, phải lấy dao rạch vào mặt mấy cái, ra chuyện rằng hoa đã có chủ.

Thời tôi còn bé, tôi vẫn còn chứng kiến các bà, các cô miền Bắc nhuộm răng. Răng phải đen rưng rức như hạt na, mới đẹp mới tình. Sau này, nhiều bà nhiều cô lại đi nha sĩ cạo cho hết cái đẹp, cái tình ấy đi mới là kỳ lạ. Âu cũng là một cách chống đối Tự nhiên, rồi sau lại đầu hàng Tự nhiên.

Gần đây triết gia William James chủ trương rằng không thể sống theo tự nhiên, mà phải đấu tranh chống với tự nhiên. Con người đẻ ra trần truồng. Tại sao, con người lại không sống trần truồng, mà lại mặc quần áo? Tại sao lại đấu tranh để được ăn no, mặc ấm, có mái nhà để nương thân? [7] Nhưng ông William James đã quên rằng con người sinh ra là để TIẾN HÓA. Như vậy con người sinh ra không phải vẹn toàn ngay, mà sẽ tiến tới vẹn toàn. Con người có bổn phận phát huy những khả năng vô biên, vô tận trong con người để tiến tới Chân, Thiện, Mỹ. Muốn vậy phải biết dùng không gian, thời gian, ngoại cảnh; chung lưng đấu cật với tha nhân; học lại gương xưa nếp cũ của tiền nhân, để rút ưu khuyết điểm. Cho nên ăn không phải là ăn không, mà ăn cho đày đủ, cho ngon miệng; mặc không phải là mặc lấy ấm không, mà còn lấy đẹp đẽ; ở không phải là ở không, mà còn phải ở cho hẳn hoi, cho đủ tiện nghi.

Phân biệt đâu là luật Trời - thiên ý, định luật tự nhiên - đâu là luật người thật ra không có gì là khó, vì luật Trời thì vĩnh cửu, toàn dân thiên hạ, toàn thể vũ trụ đã theo, đã giữ, từ thủa khai thiên; còn luật người thì nay có, mai không; nay thế này, mai thế khác; một đằng làm cho con người thảnh thơi sung sướng; một đằng làm cho con người gò bó, trói buộc, ngột ngạt, tù túng. Cái sự lẫn lộn luật trời, luật người không thể có trong chính trị, vì luật chính trị dĩ nhiên là luật người. Nó chỉ có thể lẫn lộn trong các đạo giáo.

Cho nên, xưa nay đã có những người chống luật, chống một số Giáo luật. Tiếng Mỹ gọi là những người đó là «Antinomians». Họ chủ trương Đức Tin là đủ.

Những người «du di» với Giáo luật, trước tiên phải kể Giáo chủ Moses, đạo Do Thái. Ông bắt mọi người Do Thái phải cắt bì, còn ông thì không. EXODUS đã ghi lại rõ ràng cái «màn kịch cắt bì giả» cho Moses, do bà vợ ông là Cippora đạo diễn. (Exodus, 4:24).

Thứ đến là thánh Paul. Mới đầu thì Ngài còn du di với giáo luật Do Thái, sau thì dứt khoát đoạn tuyệt. Du di, như Ngài cắt bì cho môn đệ Ngài là Timotheus (Công vụ Sứ Đồ 16- 2), nhưng sau đó không chịu cắt bì cho những người tân tòng nữa. Mặc dầu Thượng Đế đã nhiều lần phán quyết chính Ngài là tác giả các lề luật rao truyền trong đạo Do Thái; mặc dầu Chúa Kitô long trọng tuyên xưng không chủ trương phá lề luật cũ (Mat.5:17.- Luke, 16:17), thánh Paul dứt khoát dạy rằng nếu có đức tin vào Chúa Jesus, luật Do Thái sẽ không còn cần thiết nữa (Gal.2:16- 19); Chúa Jesus ra đời, là lề luật cũ hết quyền hạn đối với những giáo dân của đạo mới (Ep 2:15; Rom. 10:4). Lập trường của Ngài dần dà được các Tông đồ khác chấp nhận, mặc dầu vẫn có nhiều giáo dân tân tòng gốc Do Thái giáo phản đối (Công vụ sứ đồ 15: 5- 29)... Chính cũng vì vậy mà Ngài suýt bị người Do Thái giết. May Ngài mau trí khôn xưng mình là công dân La Mã nên mới sống sót. Nhưng đó cũng là một duyên do khiến Ngài bị bắt giam, và bị áp giải sang tận triều đình vua La Mã, là Agrippa. (Công vụ sứ đồ, các chương 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28). Dẫu sao, ta cũng phải công nhận rằng nhờ thái độ cương quyết và dứt khoát của Ngài, mà Giáo Hội Công giáo mới lan truyền mạnh mẽ khắp nơi như ngày nay...

Như trên đã nói, có hai đạo tìm hiểu nhiều về Lề luật Trời trong thiên hạ, đó là Bái hỏa giáo (Zoroastrianism) và Khổng giáo. Bái hỏa giáo xưa kia phồn thịnh ở Ba Tư. Nhưng từ khi Hồi giáo thống trị Ba Tư và Cận Đông, thì đạo này suy đồi. Ngày nay có một số chừng 40,000 người theo đạo này ở Iran, 90.000 ở Ấn Độ và chừng khoảng vài ngàn rải rắc ở Mỹ. Kim Dung thường đề cập đến đạo này và gọi là Ma giáo, hay Minh Giáo. Một giáo sĩ Bái hỏa giáo xin tôi gọi đạo này là Zoroastrianism, thay vì gọi là Bái hỏa giáo. Đạo này gọi Luật Trời là Asha. Asha là Thiện, Mỹ. Asha đã do sự khôn ngoan của Ahura Madza (Thượng đế) sáng tạo ra. Asha chính là những định tắc chi phối vũ trụ, vạn hữu và nhân quần.

Đạo Khổng gọi ĐỊNH LUẬT TRỜI, ĐỊNH LUẬT TỰ NHIÊN là Lễ 禮. Trời lập ra những định luật tự nhiên, như là những đôi giày cho chúng ta đi, để trở về với Ngài, cho nên quẻ Lý 履, tuy có nghĩa đen là GIÀY, nhưng chính lại bàn về sự TUÂN THEO ĐỊNH LUẬT TỰ NHIÊN. Cho nên, khi bình về quẻ Lý, tôi đã viết như sau:

Lý là bước đi trên con đường thần thánh hóa bản thân, vui theo những định luật thiên nhiên của Tam Tài (trời, đất, người) để thực hiện định mệnh cao sang của con người là «phản bản, hoàn nguyên», là «phối Thiên, phối Mệnh». Thế tức là:

Nghĩa, Nhân làm hán, làm hài,

Uy nghi trang trọng đường trời bước lên...

Cuối 1973, khi Đại Học Nhân Văn Minh Đức khai giảng, tôi được ủy nhiệm làm một bài diễn văn khai mạc với nhan đề: LỄ, NGHĨA, LIÊM, SỈ, tôi đã luận về Lễ đại lược như sau:

...Gần đây, các học giả Âu Châu, như Escarra, như Needham đã tìm hiểu sâu xa về chữ Lễ.

Các ông cho rằng dân Trung Hoa cũng như các dân tộc khác, xưa nay thường sống theo hai bộ luật.

Một là bộ luật tự nhiên, do Hóa Công đã ấn định. Bộ luật này được gắn liền vào với tính chất vạn hữu, nhân quần. Bộ luật này chi phối vạn hữu, từ các vì tinh tú trên trời, cho đến con người nơi gian thế. Trung Hoa gọi những định luật tự nhiên này là Lễ.

Hai là bộ luật nhân tạo, do chính quyền lập ra. Bộ luật này vì là nhân tạo, nên có khi hợp lý, có khi vô lý và thường có tính cách gò bó, khô khan, cứng cỏi, không uyển chuyển như những định luật tự nhiên. Trung Hoa gọi những định luật này là Luật, là Pháp, hay Pháp luật.

Từ khi Đức Khổng ra đời cho đến các Nho gia chân chính, nhất nhất đều chủ trương dạy con người theo những định luật tự nhiên, theo những định luật tâm lý, nhân sinh, tức là dạy con người sống theo Lễ... Muốn đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia hay xã hội được hạnh phúc, ý nghĩa, đầm ấm, hợp hòa, cần phải biết rõ định luật thiên nhiên chi phối vạn vật, chi phối sinh hoạt cá nhân và đoàn thể.

Muốn tìm cho ra những định luật thiên nhiên, cần phải:

- Biết quan sát ngoại cảnh,

- Biết phân tách các hiện tượng tâm lý,

- Biết khảo cứu lịch sử, phong tục.

- Biết dựa vào lẽ phải.

Có vậy, mới suy ra được cách hoạt động, cư xử lý tưởng.

Những định luật thiên nhiên chi phối con người có thể qui kết thành 3 đề mục.

1) Con người sinh ra ở đời, cần phải biết thích ứng với ngoại cảnh. Chẳng những thế, còn phải biết khai thác ngoại cảnh, để mà sống vui, sống khỏe.

2) Mặt khác, con người sinh ra ở đời, còn có nhiệm vụ truyền dòng giống.

3) Nhưng nhiệm vụ chính yếu nhất của con người là tiến hóa; là tiến tới tinh hoa, hoàn thiện, tiến tới Chân, Thiện, Mỹ.

Suy ra, ta sẽ có những tiêu chuẩn, những định tắc sau đây để hướng dẫn hành vi, sinh hoạt của ta:

1) Phải biết vệ sinh, biết hiếu sinh.

2) Phải lo cho có một dòng dõi hoàn hảo, lành mạnh.

3) Phải lo gia tăng sinh lực, trau giồi tình cảm, mở mang trí tuệ, nâng cao phẩm giá, nhân cách con người; vươn mãi lên theo hướng Chân, Thiện, Mỹ.

...Thánh quân, hiền phụ xưa, khi lập ra Lễ, lập ra những định tắc nhân luân, đã dựa trên những tiêu chuẩn hết sức vững vàng, chắc chắn:

1) Vì thấy trời đất liệt bày lẽ tôn ti, trật tự, nên các Ngài minh định rằng xã hội này cần phải có tôn ti, trật tự, mới có thể sống thái bình, hoan lạc, vì thế các Ngài đã minh định phận vụ cho mỗi hạng người.

2) Các Ngài minh định rằng con người cần phải theo những định luật tự nhiên mới có thể có đời sống hay, sống đẹp. Mà đã nói đến định luật, tức là phải nói đến chừng mực, tiết độ. Cho nên các Ngài suy ra rằng con người không thể sống một cuộc đời buông thả; nhưng làm gì cũng phải có chừng mực, tiết độ.

3) Các Ngài minh định rằng con người sinh ra ở đời cần phải nhân nhượng lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau, mới có thể đi đến chỗ đại hòa, đại thuận. Phàm gặp những trường hợp bất đồng ý kiến, người xưa cố điều đình, nhân nhượng, để đi đến chỗ ý hiệp, tâm đầu, tránh mọi chuyện đổ vỡ. Chính vì thế mà ta thường nói: Lễ nhượng 禮 讓 .

4) Các Ngài cũng chủ trương rằng muốn được lòng người khác, con người phải luôn luôn khiêm cung, nhún mình, trọng người. Chính vì vậy mà khi nói đến Lễ, ta thường liên tưởng đến hai chữ Lễ phép.

5) Các Ngài quan niệm rằng thuần phong, mỹ tục chính là kinh nghiệm của tiền nhân. Chúng gói ghém, bao gồm tất cả những cách thức tốt đẹp để đối phó với mọi hoàn cảnh, để giải quyết mọi công việc, vì thế cần phải bảo tồn. Tóm lại, nếu mọi người trong quốc gia, xã hội:

- Sống đúng theo định luật tự nhiên,

- Không buông tuồng, phóng túng,

- Biết trau dồi tâm thần cho ngày một thêm cao khiết, trang nghiêm,

- Nhường nhịn nhau, kính trọng lẫn nhau, lịch sự, tử tế với nhau.

- Sống theo những điều hay, nhẽ phải, thì sẽ đem lại cho mình một đời sống xứng đáng, sẽ tạo cho quốc gia, xã hội một quang cảnh hạnh phúc, đầm ấm, hòa hợp.

Đem áp dụng các định tắc thiên nhiên vào đời sống xã hội, Khổng giáo đã qui định bổn phận cho mọi hạng người trong mọi tầng cấp xã hội như sau:

Vua phải nhân (quân nhân 君 仁 ),

Tôi phải trung (thần trung 臣 忠 ),

Cha phải khoan từ (phụ từ 父 慈 ),

Con phải hiếu thảo (tử hiếu 子 孝 ),

Anh phải hẳn hoi (huynh lương 兄 良 ),

Em phải kính thuận (đệ đễ 弟 悌 ),

Chồng phải đường hoàng (phu nghĩa 夫 義 ),

Vợ phải nhu thuận (phụ thính 婦 聽 ),

Người lớn phải thi ân (trưởng huệ 長 惠 ),

Kẻ nhỏ phải vâng phục (ấu thuận 幼 順 ).

Đó là Thập Nghĩa 十 義 .

Nếu ai ai cũng giữ đúng phận vụ mình, thì xã hội sẽ đại hòa, đại thuận.

Mới hay Lễ chi phối mọi hành vi, cử chỉ con người, những cách giao tiếp của con người. «Lễ không cho phép đi quá trớn, quá giới hạn, mực thước đã qui định; không cho phép xâm phạm quyền lợi người khác, vũ nhục, khinh khi, sàm sỡ với người khác.»

«...Lễ là những định luật tự nhiên giúp con người sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống hòa hợp với mọi người, đoàn kết với mọi người... Cho nên Lễ phát nguyên tự Trời, có tầm hoạt động lan khắp trần gian, bao quát vạn sự biến chuyển theo thời, thích ứng với mọi nghề nghiệp, hoạt động con người. Nơi tâm con người, Lễ giúp làm nảy nở các đức tính tự nhiên. Trong hành vi con người, lễ bao quát mọi cách thức tặng dữ, trao đổi; mọi hành động; mọi phép lịch sự, xã giao; mọi vấn đề ăn uống; quan hôn, tang tế; bắn cung, đánh xe; yết triều, thăm hỏi...» (Lễ ký, Lễ vận VII)

Lễ qui định những gì hay, những gì phải cho con người, nên rất cần yếu đối với con người. Nó dạy con người biết làm sao để trở nên đức hạnh thực sự, làm sao để hòa thuận với người. Nó giúp cho xương thịt con ngươì trở nên cứng cát, rắn chắc; dạy con người cách nuôi người sống; chôn kẻ chết; tôn kính quỉ thần. Nhờ Lễ như một cửa lớn mà con người tìm ra được THIÊN ĐẠO, sống thuận với nhân tình. Vì thế mà thánh nhân cần biết Lễ.

Quốc phá, gia vong, nhân tâm ly tán, chính là vì con người đã không biết sống theo những định luật của trời đất, của nhân sinh.

Thế giới ngày nay chuyên dùng những lề luật, hình pháp bên ngoài để trị dân, dùng những thủ đoạn để thằng thúc dân, huyễn hoặc dân; chỉ bắt bẻ dân trên những hình thức bề ngoài; chỉ cần dân tuân theo những thể chế qui ước bên ngoài, mà thả lỏng lòng dục của dân, mặc cho tính xấu nơi dân tha hồ phát triển, miễn sao là dân khéo léo tránh né được con mắt dòm hành của pháp luật, của các nhà cầm quyền, thế là đủ. Cá nhân thác loạn vì có thể sống buông thả, vô kỷ cương. Gia đình thác loạn vì sự tương kính, tương thân trong gia đình dần dần mất đi. Xã hội thác loạn, vì giá trị con người đã mất, vì lòng trọng kính, thương yêu nhau cũng chẳng còn. Đó chính là sự thất bại của các lề luật gian trần.

Cho nên, muốn cho nhân quần thay đổi hướng đi, thay đổi thái độ, cần hô hào con người tự nguyện đi tìm cho ra các định luật của trời đất, của nhân sinh mà theo mà giữ. Nếu chúng ta đi theo đúng đường của trời đất - theo đúng Thiên ý - lập tức ta thấy cuộc đời chúng ta sẽ cải thiện; gia đình chúng ta sẽ cải thiện; xã hội chúng ta sẽ cải thiện; thế giới sẽ cải thiện, và sự thanh bình, hoan lạc tự nhiên sẽ đến với chúng ta. Bao lâu còn thấy có khổ đau, bao lâu đời sống còn đầy ngang trái, khổ lụy, bao lâu trần hoàn còn rối ren, vô trật tự, chắc chắn là bấy lâu con người chưa tìm ra được, hay chưa theo được các định luật tự nhiên, chưa biết được thế nào là THIÊN Ý. [8]

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh