Đường Vào Triết Học Và Đạo Học: Chương 5. Một Sử Quan Theo Thuyết Tam Tài

ĐƯỜNG VÀO TRIẾT HỌC VÀ ĐẠO HỌC: CHƯƠNG 5. MỘT SỬ QUAN THEO THUYẾT TAM TÀI

Dưới tiêu đề này, tôi muốn bàn về những đường đi nước bước của nhân quần, từ lúc khởi thủy, tới lúc chung cuộc. Nói cách khác tôi cùng quí vị sẽ theo dõi những diễn biến lịch sử của loài người, trong dĩ vãng, hiện tại và tương lai; tôi sẽ bàn về SỬ QUAN.

Công việc này, không phải là một chuyện huyễn hoặc, không tưởng.Tuy là một chuyện khó, nhưng trong dĩ vãng đã có nhiều người làm chuyện này. Ví dụ như Giám mục Augustin trong những năm 412- 426 đã viết quyển De Civitate Dei (Thành trì Chúa); Giám mục Bossuet, năm 1681, đã viết quyển Discours sur l'histoire universelle (Luận thuyết về lịch sử toàn cầu); Kant (1724- 1804) đã viết quyển Idea of a Universal History from a Cosmopolitan Point of View (ý niệm về Lịch sử nhân quần theo quan điểm hoàn cầu) năm 1784; Auguste Comte (1798- 1857) viết bộ Course on the Positive Philosophy (Bàn về Triết học thực nghiệm) vào những năm 1830- 1842; Hegel (1770- 1831) viết quyển Philosophie des Rechts (Philosophy of Right: Triết học Chính nghĩa) năm 1821 và quyển Lectures on the Philosophy of History (Diễn thuyết về Triết học Lịch sử), xuất bản sau khi ông mất; Karl Marx (1818- 1883) trong các sách của ông như Critique of Political Economy (1859); The German Ideology viết trong khoảng 1845- 1846, nhưng mãi đến năm 1932 mới xuất bản; Poverty of Philosophy (1847); Communist Manifesto (1948); Capital (Tập 1) xuất bản năm 1867 v.v... ấy là tôi chưa kể đến Herder, Oswald Spengler, Arnold Toynbee, các nhà thấu thị Ấn Độ thủa xa xưa, các triết gia Trung Hoa như Thiệu Khang Tiết (1011- 1077), tác giả quyển Hoàng Cực Kinh Thế. Các tác giả trên hoặc mặc nhiên, hoặc công khai chủ trương rằng lịch sử nhân quần không phải là một cuộc diễn biến hỗn loạn, nhưng mà là một cuộc diễn biến có mục phiêu (Augustin), có chiều hướng (Auguste Comte, Karl Marx), được chi phối bởi những định luật biến dịch: sinh, trưởng, thu, tàng; vinh, khô, đại, tạ (Hegel, Arnold Toynbee, Oswald Spencer).

Phần đông người Âu Châu xưa nhìn vào lịch sử nhân quần thấy nó diễn biến ra trong một khoảng thời gian rất là ngắn ngủi, khoảng 6000, 7000 năm, và đang mong chờ nhật nguyệt, tinh cầu rơi rụng xuống trần gian, như những trái vả chín để cho trần gian đắm chìm trong mưa dầu, nắng lửa. Và để giản dị hóa cái nhìn vào lịch sử nhân quần, người ta coi trần gian này như là một chốn khách đày, đầy chông gai, gian khổ, mà con người phải cắn răng, cúi đầu chịu đựng, để đền bù tội lệ của mình và của tiên tổ. Nó cũng như là trại tị nạn tạm bợ, mà mọi người sống trong những giây phút chờ chực, để được chọn lựa vào Thiên Quốc, nếu hội đủ tiêu chuẩn; nếu không đủ tiêu chuẩn, sẽ bị dẫn giải xuống Âm Ti, Địa Ngục, có thể là có tới 9 tầng, chắc chắn là ồn ào, nhớp nhúa lắm. Đối với tôi, sử quan này chẳng hấp dẫn tí nào!

Nhiều người Đông Phương cũng coi đời là bến mê, bể khổ, chỉ mong thoát nợ đời. Với thái độ ấy, lịch sử nhân quần trở nên vô nghĩa. Vì bản tính vốn lạc quan, vui vẻ, nên tôi cũng không ưa cái nhìn buồn thảm này. Trái lại, tôi thích coi lịch sử nhân quần là những trang sử hào hùng, ghi chép toàn những chuyện «thắng mê», «thắng khổ».

Dần dà nhân loại đã bắt đầu không còn coi hồng trần là bãi rác, là nơi tù đày nữa, mà thấy nó có thể trở thành Lạc Viên, Lạc Cảnh, nếu mình biết bắt tay vào công trình khai thác, hoán cải nó. Các triết gia đã dần dần thổi vào lịch sử nhân quần một luồng hào khí mới, một luồng sinh lực mới. Thực vậy, các triết gia Âu Châu, từ thế kỷ XV trở đi, khi bàn về lịch sử nhân quần, đã đem được định luật biến dịch lồng vào sự diễn biến của lịch sử. Tuy nhiên mới chỉ thấy được sự biến hóa một chiều, theo một con đường thẳng.

Auguste Comte cho rằng nhân loại từ trước đến nay đã đi qua ba giai đoạn, là: Thần quyền, Siêu Hình, và Thực nghiệm khoa học. Đó chính là một sự suy diễn về quá trình biến hóa theo con đường thẳng, và cũng chưa có đoán định về tương lai.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Karl Marx nhìn vào sử quan qua lăng kính Duy vật biện chứng pháp. ông cho rằng lịch sử biến hóa được chính là do động cơ vật chất, kinh tế. Vật chất, kinh tế là hạ tầng cơ sở. Tùy theo sự biến hóa của các phương tiện sản xuất, mà lịch sử cũng dần dần thay đổi bộ mặt, mà các cơ cấu trên thượng tầng, như văn hóa, tư tưởng, chính trị, xã hội cũng được đổi thay. Theo Marx, Engels và Lénine lịch sử biến thiên để đưa đến một thế giới không quốc gia, một xã hội không giai cấp, trong đó mọi người đều bình đẳng, không còn ai bóc lột ai. " Tuy nhiên trước khi đi đến thời kỳ hi vọng đó, phải qua thời kỳ oán ghét, phải qua giai đoạn vô sản chuyên chính. Mục đích của vô sản chuyên chính là nhào con người cũ để nặn nên con người mới. Không có chuyện nới tay; phải thằng thúc ghê gớm. Nhưng, để làm công chuyện này, đã có một phương thế hết sức là hùng mạnh, một công cụ đàn áp rất đặc biệt đó là nhà nước.

Trong thời kỳ đầu này, nhà nước sẽ không lơ là, mà ghi chép hết, kiểm soát hết. Sự kiểm soát sẽ toàn diện, phổ quát, cùng khắp mọi nơi trong nước, và không ai có thể tìm ra chỗ nào để trốn lủi, để thoát thân. Tất cả xã hội, chỉ còn là một bàn giấy lớn, một nhà máy lớn, và mọi người bình đẳng về vấn đề lao động, về vấn đề lương hướng. [1]

Sử quan này cũng chỉ mới có một chiều: Nói theo Dịch, nó mới chỉ là chiều Âm trưởng, Dương tiêu: Theo chiều hướng này, chỉ mới thấy vật chất thịnh, tinh thần suy. Trong tương lai phải có thêm một chiều hướng mới là Âm tiêu, Dương trưởng; vật chất sẽ đóng vai trò thứ yếu, tinh thần càng ngày càng đóng vai trò tối thượng. Cái thế giới đại đồng, mà Mác. Lê mơ ước, thực ra sẽ ở cuối con đường DƯƠNG, con đường tiến hóa tinh thần, khi mà nhân loại sẽ lấy Tinh thần làm CHỦ, vật chất làm KHÁCH. Vật chất sẽ chỉ đóng vai trò phụ thuộc để giúp con người tiến tới tinh hoa cao đại. Nói vậy có nghĩa là nhân loại chỉ có thể đi vào thời đại hoàng kim, khi đi ngược laị chiều hướng vật chất của Mác Lê.

Chính vì vậy mà Chủ Nghĩa Duy Vật, cũng như Duy Vật Sử Quan khó mà mang lại hạnh phúc cho con người.

Riêng tôi, dựa vào Dịch lý, dựa vào lẽ biến Dịch tuần hoàn của trời đất, đã thấy Mác, Lê mới chỉ nhìn thấy chiều hướng tiến của vật chất mà chưa nhìn thấy chiều hướng tiến của tinh thần, và đã mau đem màn đêm sầu khổ, thương đau, phủ lên trên một phần hoàn võ. Kim Dung, trong Lộc đỉnh ký, đã sánh những người làm chính trị và người dân, như thợ săn với hươu. Cách săn hươu tuy có khác nhau, nhưng khi hươu đã lọt vào tay thợ săn, thì hươu biết ngay số phận mình. Cũng y thức như cá ngoài lờ, thì tưởng trong lờ là sung sướng, nên muốn chui vào; khi đã lọt vào lờ, thì lại đỏ mắt trông chờ ngày giải thoát...

Trong quyển Philosophy of History của Cairns, nơi trang 449, ta thấy Toynbee cũng đồng ý với Ibn Khaldun, Vico, Spengler và Sorokin, khi cho rằng các nền triết học duy vật là đặc điểm của những thời kỳ suy thoái trong bất kỳ nền văn hóa nào. [2]

Các Triết gia xưa nay cũng tìm hiểu xem động lực nào thúc đẩy sự biến hóa trong lịch sử. Và ta nhận thấy các tư tưởng đưa ra cũng không mấy giống nhau. Trong quá khứ, nhất là trong thời Trung cổ, người ta cho rằng sự biến thiên của lịch sử nhân quần đã do một thần lực ngoại lai, do sự quan phòng (Providence) của Thượng đế. Tư tưởng này đã được các sử gia công giáo như Eusebius (c. 264-340), tác giả quyển Ecclesiastical History (Sử Ký Hội Thánh); Augustine (354-430), tác giả quyển The City of God (Thành trì Chúa); Bede (673-735), tác giả quyển An Ecclesiastical History of the English People (Lịch sử Giao Hội Anh) chủ trương và khai thác.

Từ 1400 về sau, các sử gia Âu Châu bắt đầu chuyển hướng và cho rằng lịch sử chuyển biến là do ý hướng của nhân loại. Voltaire (1694-1778) cho rằng lịch sử tiến hóa từ tăm tối của dị đoan, tà thuyết để đi dần dần đến ánh sáng của lý trí. Kant (1724-1804), Herder, Hegel (1770-1821) cho rằng lịch sử biến chuyển là do những động lực nội tại, tiềm tàng sẵn trong nhân quần, thay vì do một đũa thần bên ngoài. Hegel còn cho rằng lịch sử là do sự phát triển, và sự hình hiện của thần lực trong con người. ông cũng còn cho rằng lịch sử biến hóa là do sự hỗ tương tác dụng giữa Lý Tưởng và Thực Tại; là sự hình hiện của Tuyệt đối trên triền thời gian; là quá trình Thần Linh tự khai triển... Marx cho rằng kinh tế, vật chất là động cơ của lịch sử.

Chúng ta không thể trình bày hết mọi quan niệm, mọi lý thuyết của các Triết gia Đông, Tây, Kim, Cổ được. Chúng ta chỉ có thể trình bày một cách khái lược như sau:

1.- Lịch sử biến thiên có mục phiêu:

- Đó là sự Chúa cứu rỗi nhân loại (Augustine).

- Đó là sự tiến bộ chẳng những về phương diện vật chất, kỹ thuật mà còn là sự giải phóng con người cho khỏi những vô lý của lịch sử, nhất là khỏi chiến tranh (Condorcet, Comte, Herbert Spencer).

- Đó là sự tiến bộ để con người và xã hội loài người càng ngày càng sống hợp lẽ phải (Immanuel Kant, Georg F. W. Hegel, Johann Gottlieb Fichte).

- Đó là tiến bộ đến một xã hội bình đẳng, đại đồng (Marx).

2.- Lịch sử tiến hóa có chiều hướng:

a).- Hoặc biến hóa theo một đường thẳng (đa số triết gia).

b).- Hoặc biến hóa theo chu kỳ (sinh, trưởng, thu, tàng) thịnh suy đắp đổi (Oswald Spengler, Arnold Toynbee).

3.- Lịch sử biến thiên là do những động cơ thúc đẩy. Động cơ đó có thể là thần quyền, hoặc là do những nguyên nhân nội tại tiềm ẩn sẵn trong con người, như đã trình bày ở trên.

Riêng tôi, khi suy tư về Sử quan, tôi sẽ đóng góp như sau:

A.- Lịch sử biến thiên có lớp lang, tiết tấu, có mục phiêu rõ rệt: Đó là sự khai triển phát huy toàn diện các khả năng nơi con người, cả về ba phương diện Thần, Hồn, Xác. Đó là quan niệm Tam Tài mà tôi sẽ dùng để cắt nghĩa quá trình lịch sử.

B.- Lịch sử biến thiên do những động cơ nội tại, tiềm ẩn sẵn trong bản chất loài người; do những định luật chi phối mọi sự biến thiên trong hoàn võ. Như vậy mới có thể tiên tri, tieân đoán được.

C.- Lịch sử biến thiên có chiều hướng, nhưng sẽ diễn biến theo hai chiều, theo đúng định luật vãng, lai, phản phục, tụ tán của trời đất.

Tôi chủ trương rằng cái gì cùng một lúc đã diễn biến ra cho nhân quần, sẽ tuần tự diễn biến ra trên triền thời gian lịch sử cho nhân loại. Nói thế có nghĩa là nếu ở trong không gian, có người hay người dở; có thánh, có phàm, thì nhân quần trong sự diễn biến của lịch sử, cũng có lúc phàm, có lúc thánh... Tôi cứ nhìn vào sự diễn biến của một con người lý tưởng, sẽ suy ra được một sử quan lý tưởng mà loài người sẽ khuôn theo.

Trước khi kết luận rằng lịch sử nhân quần phải tiến theo hai chiều thuận nghịch vãng lai, tôi đã khảo thiên nhiên, khảo tư tưởng, lập trường của người xưa, và tôi đã đi đến kết luận rằng sự biến thiên tuần hoàn, theo hai chiều thăng giáng, thuận nghịch là một định luật phổ quát.

- Ấn Độ gọi chiều Vãng là hơi thở ra của Brahma (expir); chiều Lai là hơi thở vào của Brahma (inspir). Họ còn gọi chiều Vãng là Phát (Manvantara); chiều Lai là Thu (Pralaya).

- Huyền học (Mysticism) gọi chiều Vãng là Phù sinh; chiều Lai là Trường sinh.

- Mật tông (Hermetism) gọi chiều Vãng là Kết (Coagula); chiều Lai là Giải (Solve).

- Hóa học gọi chiều Vãng, chiều Giáng là Hủ Hoại (Putrefaction), chiều Lai, chiều Thăng là Siêu thăng, hay Thăng hoa (Sublimation).

- Thiên văn gọi chiều Vãng là Tán (Expansion); chiều Lai là Tụ (Concentration).

- Triết học gọi chiều Vãng là Phóng ngoại (Extroversion); chiều Lai là Hướng nội (Introversion).

- Vòng Thập can, vòng Thập nhị chi, vòng Trường sinh, vòng Dịch và 12 dấu nhạc Trung Hoa nhất nhất đều hàm chứa sự biến hóa hai chiều đó.

Muốn hiểu tất cả các vòng biến thiên đó, chúng ta hãy khởi từ phía bên phải, khởi từ phía bên Âm, tức là phía Âm trưởng, Dương tiêu; rồi mới sang phía bên trái sau, là phía Dương, phía Âm tiêu, Dương trưởng. Làm như vậy ta sẽ thấy nửa chiều biến dịch trước là chiều suy thoái (suy thoái của tinh thần; nhưng tiến hóa của vật chất). Nửa chiều sau mới là nửa chiều tiến hóa (tiến hóa của tinh thần, nhưng suy thoái của vật chất)

* Vòng thập can:

Canh, Tân = Vạn vật canh tân.

Nhâm, Quí = Bế tàng, hoài thai, manh nha.

Giáp, Ất = Thoát ra khỏi vỏ, rồi vươn lên.

Bính, Đinh = Rồi sáng sủa rực rỡ.

Mậu, Kỷ = Chung cuộc sẽ tốt đẹp, thành tựu.

* Vòng thập nhị chi.

Mùi = Vạn vật khoác hình hài, có mùi vị.

Thân = vạn vật có thân thể.

Dậu = dần dà thâu xúc lại.

Tuất = Rồi bị suy diệt.

Hợi = Rồi bị khắc sát, tàn vong.

Tí = Sau đó lại thai dưỡng.

Sửu = lại lọt lòng ra.

Dần = Rồi khai triển, diễn tiến.

Mão = Tốt đẹp.

Thìn = Phấn chấn.

Tị = Rồi vươn mãi lên.

Ngọ = đi đến chỗ trưởng đại. [3]

* Vòng Trường sinh.

Suy.

Bệnh.

Tử.

Mộ.

Tuyệt.

Thai.

Dưỡng.

Trường sinh.

Mộc dục.

Quan đới.

Lâm quan.

Đế vượng.

* Vòng Dịch:

Nửa vòng Âm: Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn.

Nửa vòng Dương: Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Kiền.

* 12 dấu nhạc Trung Hoa:

Nhuy tân = Âm khí ấu tiểu (vừa mới manh nha)

Lâm chung = Vạn vật bàng hoàng, sắp chết.

Di tắc = Âm khí như giặc cướp, quấy rối vạn vật,

Nam Lữ = cuộc lữ hành của Dương khí gần tới giai đoạn ẩn tàng.

Vô dịch = Dương khí «vô dư» (không còn thừa nữa).

Ứng chung = Dương khí không dùng làm được việc nữa.

Hoàng chung = Dương khí từ hoàng tuyền bốc lên.

Đại Lữ = chuẩn bị đưa vạn vật xuất sinh, chuẩn bị một cuộc lữ hành.

Thái thốc = Vạn vật thốc sinh.

Giáp chung = Âm Dương giáp kề.

Cô tẩy = vạn vật trở nên thanh lịch,

Trọng lữ = vạn vật đi đến chỗ cương cường...

Người xưa, với các vòng biến hóa trên, thực ra đã tìm thấy định luật chi phối sự biến thiên, tăng giảm của nhị khí Âm Dương, của Tinh thần và Vật chất trên triền thời gian.

Tôi nghĩ rằng, nếu trời đất này đã được chi phối bởi những định luật vĩnh cửu, thì không có lý nào con người lại có thể hành động bừa phứa, và lịch sử lại có thể biến động bừa phứa. Con người có thể đi sai, làm sai những định luật thiên nhiên ấy, nhưng con người chóng chày sẽ thấy những hậu quả chẳng hay, chẳng tốt cho mình, cho người; nên rốt cuộc vẫn phải sửa sai; vẫn phải nhận chân rằng định luật trời (định luật tự nhiên) mới chính là bảo đảm hạnh phúc cho loài người...

Khi tôi xây dựng Sử quan, tôi sẽ đứng ngoài vòng các ảnh hưởng chính trị, đạo giáo, màu da, sắc áo, để cho cái nhìn của tôi hết sức khách quan, để sự trình bày của tôi được hết sức thành khẩn. Nếu nó sai, sẽ bị thời gian đào thải; nếu nó đúng sẽ được lưu lai. Đó cũng là định luật thiên nhiên vậy.

Khi bàn về Sử quan, một câu hỏi mà tôi tự nêu ra, nhưng lại làm cho tôi hết sức băn khoăn, và cũng không biết trả lời cách nào cho thỏa đáng. Đó là: Lịch sử nhân quần được diễn biến ra trong khoảng một thời gian ấn định là bao nhiêu lâu? Phải thành khẩn thú nhận nhân loại xưa nay chưa ai tìm ra được câu trả lời thỏa đáng.

* Xưa Hi Lạp và Ba Tư đã có thời gian cho một chu kỳ lịch sử là 360 x 36= 12,960 (4320 x 3) năm. Lịch sử diễn biến từ Kim, đến Ngân, Đồng rồi Thiết.

* Plato cho rằng 1 chu kỳ lịch sử là 360 x 72= 4320 x 4= 25920 năm, cũng là khoảng thời gian mà mặt trời dùng, để vào ngày Xuân Phân, để trở về đúng điểm Gamma trên vòng Hoàng Đạo.

* Người Âu Châu sau này lại thấy con số đó quá to. Họ dựa vào lời trần thuật ghi trong Thánh Kinh, nhất là Sáng Thế Ký (Genesis), để tin rằng từ khi có đất trời, và loài người đến nay mới chỉ có khoảng là ngót 6000 năm. Tổng giám mục James Ussher toán ra rằng Thượng đế tạo nên hoàn võ vào năm 4004 trước Công Nguyên. Tiến sĩ Lightfoot ở Cambridge xác định rằng sự sáng tạo trời đất đã xảy ra vào 9 giờ sáng, tháng 10, năm - 4004. Bắt đầu từ năm 1701 đã có nhiều bản Kinh Thánh của Tin Lành gọi là bản King James (King James version) đã ngang nhiên cho in giữa trang đầu Sáng Thế Ký con số huy hoàng: 4004 [4]

Tôi hiện có một quyển Tuẫn Tiết Lục La Mã (Martyrologe Romain), của Công Giáo, bắt đầu in do lệnh Giáo Hoàng Gregory XIII (1572-1585), duyệt lại với uy tín của Giáo Hoàng Urban VIII (1590) và Clement X (1670- 1676); nhuận chính và tăng bổ năm 1749 do Giáo Hoàng Benedictus XIV (1740-1758), được in lại năm 1959 và có đủ ấn ký Nihil obstat và Imprimatur của giáo quyền Pháp.

Trong đó, nơi những trang 469-470, khi đề cập đến lễ Sinh Nhật, đã cho ta những niên kỷ sau đây:

- Trời đất được tạo dựng bởi không: 5199 BC.

- Đại Hồng thủy: 2959 BC.

- Abraham sinh năm: 2015 BC.

- Moses đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập: 1510 BC.

Năm 1744, trong quyển Lịch sử vạn vật, Buffon chủ trương trái đất đã có khoảng 70.000 năm, thế mà đã bị coi là một sự xúc phạm lớn lao, và tác phẩm bị cấm đoán.[5]

Ngay khi Darwin chết rồi (1809-1882), người ta vẫn còn dạy rằng vũ trụ được tạo dựng 4963 năm trước kỷ nguyên, và cuốn Tự điển Larousse xuất bản năm 1882 ghi rằng: «Đó là niên kỷ duy nhất được chấp nhận trong các trường.» [6]

Tuy nhiên, ta cũng phải nhận định rằng Origen (185- 251), một giáo phụ Công giáo, đã đơn độc chủ trương một sự sáng tạo miên trường... Lúc chung cuộc của sự biến hóa tuần hoàn, muôn loài sẽ trở về cùng Thượng đế... Sau đó lịch sử lại diễn biến trở lại, cứ như vậy vô biên, vô tận [7].

- Thiệu tử, tác giả quyển Hoàng Cực Kinh Thế cho rằng: đất trời từ khi sinh đến khi hủy là 4320 x 30= 129,600 năm.

Ông gọi 129,600 là một Nguyên.

1 Nguyên chia làm 12 Hội: 129,600 : 12 = 10,800 năm

1 Hội có 30 Vận: 10,800 : 30 = 360 năm.

1 Vận có 12 thế: 360 : 12 = 30 năm.

Theo Ông, trời khai vào Hội Tí; Địa khai vào Hội Sửu (10800); Người sinh vào Hội Dần 20,160.

Vua Nghiêu lên ngôi 2357, theo Thiệu Tử là vào Hội Ngọ, vận thứ 30, thế thứ 9, tức là vào năm 67,057 sau khi trời được tạo nên. Theo đấy mà tính, thì năm nay, 1988, chúng đang sống vào năm 71,402. Loài người sẽ cáo chung vào Hội Tuất, tức là vào khoảng năm 108,000!

- Ấn Độ thì cho rằng chu kỳ lịch sử nhân quần là: 4320 x 1000 = 4,320,000. Đó là thời gian mà Nhật nguyệt sẽ hợp bích, ngũ tinh sẽ liên châu, nghĩa là cùng chụm lại ở một cung trời, như thời nguyên thủy. Còn chu kỳ vũ trụ là 4,320,000,000.

Có người lại chủ trương một ngày Brahma là 864,000,000 năm, gồm có:

- 432,000,000 là ban ngày của Brahma (tán).

- 432,000,000 là ban đêm của Brahma (tụ)

Ví dụ Brahma sống 100 tuổi, chúng ta có:

840,000,000 x 365 x 100=30,660,000,000,000, tức là khoảng 30 ngàn tỉ năm. Riêng đạo Phật và đạo Kỳ Na (Jainism) thì coi lịch sử nhân quần được diễn ra không biết là trong bao nhiêu a-tăng-kỳ (asamkhya) kiếp (kalpa), nghĩa là trong 1 thời gian vô hạn lượng.[8]

Các nhà bác học Âu Mỹ, từ thế kỷ XVIII đến nay cũng đã xông vào vòng chiến. Với những cách đo tuổi tác các tinh cầu, đất đai và sinh linh bằng Carbon 14, bằng các chất phóng xạ, như Uranium 238, Actino- Uranium 235, Thorium T 232 v.v... và họ đã ước định tuổi vũ trụ già nhất là 10,000 tỉ năm; tuổi mặt trời già nhất là 10 tỉ năm; tuổi trái đất khoảng 2 tỉ năm.

Các nhà bác học, kể từ Jacques Boucher de Perthes (1788-1868) cũng đã ra công đi tìm di tích tông tổ loài người.

Nhà bác học Lecomte du Noüy đã tóm lại như sau:

- Người Piltdown: cách đây khoảng 1,000,000 năm.

- Hầu nhân (Pithecanthropus) cách đây 500,000 năm.

- Trung Hoa nhân (Homo sinensis) cách đây từ 2000,000 đến 500,000 năm.

- Người Heidelberg: cách đây từ 50,000 đến 100,000 năm.

- Người Neanderthal:

  1. a) cựu: cách đây từ50,000 đến 100,000 năm.
  2. b) tân: cách đây 40,000 năm.

- Người Cro- Magnon (Linh nhân= Homo sapiens):

  1. a) Cựu: cách đây khoảng từ30,000 đến 50,000 năm.
  2. b) Tân: cách đây khoảng 20,000 năm.

Quốc gia nào có được ít nhiều mảnh xương của "tổ tiên", thì cũng gìn giữ cẩn thận hơn là kim cương, châu báu, trong những hầm chứa đã được xây cất đặc biệt, bom phá cũng không được; lại được để trong những tủ kính, mà quần chúng không được xem trực tiếp, mà chỉ được xem qua những ảnh, những tượng đã chụp lại hay nặn lại. Những mẩu xương hóa thạch của những người tiền sử nói trên hiện đang được cất giữ ở bảo tàng Nairobi, xứ Kenya; ở bảo tàng Transvaal Museum, tỉnh Pretoria, Nam Phi; hay ở ngoại ô Stuttgart (Đức) v.v... Về thời gian của Lịch sử loài người, tôi tạm thời dựa vào những dữ kiện khoa học, và những kết luận của khoa học. Vì chủ trương rằng vũ trụ này là môi trường để con người tiến hóa thành thần minh — kẻ trước người sau, ai cũng như ai — nên dĩ nhiên tôi nghĩ rằng phải tốn một thời gian hết sức là dài, gần như là vô lượng, chính vì vậy mà tôi không tin có tận thế trong một ngày gần đây.

CÁI NHÌN TAM TÀI VÀO SỬ QUAN

Theo tôi, nhân loại từ trước tới nay đã biến chuyển từ chữ THIÊN, đến chữ NHÂN, rồi lại từ chữ NHÂN đến chữ ĐỊA. Hiện nay, đang còn ở trong vòng chữ ĐỊA. Trong tương lai, sẽ tiến ngược chiều, để đi từ chữ ĐỊA, tới chữ NHÂN, rồi lại từ chữ NHÂN đến chữ THIÊN.

Người Âu Châu đã chia lịch sử làm 3 thời kỳ:

* Thượng cổ: từ ‒3000 đến +400.

* Trung cổ: từ +400 đến +1500

* Cận kim: từ +1500 đến nay.

Hoặc chia lịch sử thành hai thời kỳ: Từ Adong, Eva đến khi Chúa Giêsu ra đời cứu chuộc là Tiền Công Nguyên. Người Âu Châu gọi là B.C. (before Christ). Từ năm 1 gọi là Công nguyên. Người Âu Châu gọi là A.D. (Anno Domini). Thế giới từ 1900 trở đi chịu ảnh hưởng Âu Mỹ, nên cũng tính lịch sử theo lối trên. Tuy nhiên ta vẫn thấy nhiều người tính theo Phật lịch, Hồi lịch, bắt đầu từ năm Phật, hay Mahomet (Mohammed) giáng sinh...

Tôi chia như sau:

*Thượng cổ từ Thái sơ đến ‒600.

*Trung cổ từ ‒600 đến +1700

*Hiện kim: từ 1700 đến nay.

Trong chiều này, con người hướng ngoại, đi theo chiều phá tán, tinh thần càng ngày càng lặn sâu vào vật chất. Vật chất càng ngày càng thịnh. nhưng tinh thần càng ngày càng suy.

Thời Thượng cổ đi theo chữ THIÊN. Niềm tin ở thời Thái cổ đó là: vạn vật, vũ trụ đã từ một đại thể tung tỏa ra. Người hay vật, mà có quyền uy, mà linh diệu, chính là vì cái sức thiêng bàng bạc khắp vũ trụ đó đã thể hiện, đã hình hiện một cách đặc biệt trong người ấy, vật ấy. Con người trông thấy thần thánh bàng bạc khắp nơi, đúng là «thần cây đa, ma cây đề» theo lối nói dân gian Việt Nam. Các dân xưa gọi sức thiêng huyền diệu đó là Mana. Cho nên con người, cũng như vạn vật đều được coi là thông phần huyền lực linh thiêng đó. Thánh, Hiền, Tiên, Phật chính là những người trực giác được một cách mãnh liệt cái Huyền lực Thiêng Liêng ấy nơi mình, và sống một cuộc đời huyền hóa với trời đất, với tha nhân và chúng sinh.

Học thuyết chủ động thời ấy, có thể nói là một học thuyết bất thành văn, chủ trương rằng vũ trụ này từ một Đại thể vô biên phóng phát tán phân ra. Đại thể ấy là Bản thể muôn loài. Bản thể là Nhất; muôn loài là Vạn. Nhất tán Vạn, rồi Vạn lại qui về Nhất. Lý tưởng con người là tìm ra được phương cách «qui nguyên phản bản», sống đời sống «Phối Thiên». Chúng dân trong thời kỳ thô sơ ấy dĩ nhiên là còn man rợ về phương diện vật chất, nhưng thực ra họ sống vui, sống khoẻ, sống hồn nhiên, vì còn ít tham vọng, còn được tự do, chưa bị lồng vào trong những vòng nhân nghĩa gian trần; chưa bị nhồi nhét bằng những học thuyết gian trần... Thánh hiền tin rằng con người có đủ ba phần: THẦN, HỒN, XÁC.

Bộ sách Upanishad của Bà La Môn, thiên Đại Nhã kinh Thi - mà Khổng tử sưu tập sau này - đã cho ta thấy cái chủ trương Trời chẳng xa người; hay Thiên nhân tương dữ; Thiên nhân hợp nhất, của thủa xa xưa.

Tới thời Trung cổ, nhân loại đi vào chữ NHÂN. Cho rằng NGƯỜI là NGƯỜI, TRỜI là TRỜI; TRỜI, NGƯỜI xa cách nhau muôn trùng. Con người sinh ra là để ca tụng TRỜI, thờ phượng TRỜI, chứ không thể sống kết hợp với TRỜI như một được.

Vào khoảng những năm -500, ta thấy vô số giáo chủ giáng trần:

Zarathushtra bên Ba Tư; Lão Tử, Khổng Tử bên Trung Hoa; Phật Thích Ca bên Ấn Độ v v... Lúc ấy xảy ra một hiện tượng hết sức kỳ lạ, là con người y như đã đánh mất phần thần của mình. Con người chỉ còn có Hồn có Xác. Chính vì vậy, mà con người không còn tin rằng mình có giá trị vô biên, và cho mình đang sống kiếp tôi đòi, sa đọa. Các vị giáo chủ cố lấy đời mình để ca tụng cái giá trị vô biên của con người, nhưng con người cũng chẳng nghe. Họ giải quyết vấn đề với các vị giáo chủ, là đưa các vị đó lên ngôi vị tối thượng, rồi xì xụp van vái, cho rằng thế đã là đủ bổn phận với các ngài. Tới khoảng năm -7, chúa Jesus ra đời. Ngài cũng muốn đem tin mừng cho nhân loại là Trời chẳng xa người; nước Trời chẳng xa con người, mà thực sự đã ngay trong lòng con người; con người chính vì thế mà có giá trị siêu việt, có năng lực vô biên; có thể làm được những phép lạ, chẳng thua kém gì Ngài; tha nhân chính là Thượng đế; phục vụ tha nhân là phụng sự Thượng đế. Nhưng nhân loại cũng chẳng mở mắt ra mà trông, mở tai ra mà nghe. Từ những tư tưởng cao diệu như vậy, từ những chất liệu huy hoàng như vậy, nhân loại đã cắt, đã xén, đã pha phôi thành những sản phẩm trần gian... Và từ năm -500 trở mãi về sau, thủa thanh bình của nhân loại đã biến thành thế Chiến quốc, và những cánh đồng cỏ xinh tươi của trần hoàn đã bao phen bị vó chiến mã, chân chiến binh làm cho tan nát. Lòng con người càng ngày càng xe thắt, nước mắt càng ngày càng tuôn rơi, trong những khoảng đêm vắng, canh trường...

Các đạo giáo dần dần thành hình. Ba tư có đạo Bái Hỏa (Zoroastrianism) do Zoroaster (Zarathushtra) sáng lập. Đông phương có Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo; rồi 500 năm sau, tới Thiên Chúa giáo. Đặc điểm của thời này là nhân loại bắt đầu bị lồng vào trong những giáo điều, giáo luật, giáo giới. Học thuyết triết học nắm vai chủ động trong thời kỳ này là Thuyết Sáng Tạo (Creationism). Thế giới này đã được sáng tạo nên bởi không, do một vị Thượng thần. Đó là Ahura Madza theo Bái Hỏa giáo, hay Thượng đế trong Thiên Chúa Giáo, Brahma trong Ấn Giáo. Các đạo giáo càng ngày càng chú trọng về vấn đề lễ nghi hình thức. Cho nên dần dà ta thấy hiện ra hai dòng tư tưởng, hai lề lối đạo hạnh.

* Một là Mật giáo hay Nội giáo mà Âu Châu gọi là Occultism, Mysticism hay Esoterism, chỉ chú trọng đến vấn đề phát triển, tiến hóa tâm linh.

* Hai là Ngoại giáo công truyền, chú trọng đến vấn đề giáo điều, lễ nghi, thờ phượng. Âu Châu gọi là Exoterism.

Công truyền dành cho quần chúng; Mật truyền dành cho một thiểu số tao nhân, mặc khách. Mật truyền thường bị các giáo quyền đương thời cho là bàng môn, tả đạo, và có thể bị bách hại, nên họ phải núp mình sau những bình phong hiệp hội như Tam Điểm (Free-Masonry), như Hồng Hoa Thập tự (Rosicrucians) bên Âu Châu. Hai trào lưu này được thể hiện trong Phật giáo bằng Thiền tông và Tịnh độ...

Từ khoảng 1700 đến nay, nhân loại dần dần đi vào chữ ĐỊA. Người ta công khai chủ trương con người chỉ có XÁC. Xác sinh ra tư tưởng, như gan sinh ra mật. Con người không có giá trị gì. Có giá trị chăng là nhờ vào xã hội. Con người biết được gì là nhờ sự giáo hóa của xã hội. Tinh thần chẳng qua là sản phẩm của vật chất. Học thuyết nổi bật trong thời kỳ này là học thuyết Tiến Hóa. Nó cho rằng vũ trụ tinh cầu này là do sự ngẫu hợp của những vi tử, vi trần mà ra. Sinh cơ, sinh vật đã phát ra từ vật chất vô tri, và thủy tổ loài người chính là đã do từ những vi trùng vi khuẩn. Những sinh vật đó tiến hóa dần dần, theo đà thời gian, sẽ biến thành những sinh vật hạ đẳng, rồi đến những sinh vật thượng đẳng, như khỉ, vượn, rồi dần dần mới biến hóa thành ra người... Giá trị con người càng ngày càng được đánh giá bằng tiền tài, và châu báu. Con người dần dần mất luôn cả HỒN mình, chỉ còn như là những cái xác, nhiều khi nhất cử nhất động cũng là do theo mệnh lệnh của tha nhân... Và cũng trong thời kỳ này, vô số là bác học, khoa học gia xuất hiện. Xuất hiện để cải thiện môi trường sinh sống bên ngoài cho nhân loại, để cải thiện đời sống vật chất cho nhân loại. Văn minh vật chất đã tiến bộ hết sức là huy hoàng. Nhưng những công cụ giết người cũng gia tăng khủng khiếp. Con người càng ngày càng trở nên tàn nhẫn. Những lò thiêu người đã được tổ chức ngạo nghễ; những trại giam người càng ngày càng tăng thêm, và hai cuộc chiến tranh vô cùng khốc hại giết đi hàng trăm triệu con người. đã làm cho nhân loại bắt đầu thức tỉnh, và dần dần muốn đổi tầm nhìn, lối nghĩ, muốn tìm hiểu lại những giá trị sẵn có nơi con người...

Trong tương lai nhân loại muốn cứu sống mình cần phải thay đổi chiều hướng, cần phải sùng thượng những giá trị tinh thần. Cho đến nay, nhân loại không muốn xoay chiều. Cho rằng xoay chiều rồi ra sẽ đi về man di như thời cổ đại. Thực ra không phải như vậy.

Khi đi hết con đường vật chất, con người sẽ đi đến chỗ bế tắc, sẽ đến đầu đường. Muốn khỏi bò tiêu diệt, tất nhiên phải quay lưng lại vật chất, mà hướng về phía tinh thần. Thế là Phục sinh (Regeneration, Palingenesy, Resurection), là Hồi phục (Conversion). Dịch cho rằng thế tức là: Cùng tắc biến; biến tắc thông; thông tắc cửu.

Đi vào con đường vật chất, tức là đi vào con đường trụy lạc, sa đọa tinh thần (degeneration, fall).

Đi vào con đường tinh thần, là đi vào con đường giải thoát, phục sinh (redemption, regeneration).

Cổ nhân đã xác định thời kỳ hồi phục của con người. Thời ấy chính là thời kỳ đen tối nhất của lịch sử nhân loại, tượng trưng bằng giờ Tí (nửa đêm), và bằng quẻ Khôn (hoàn toàn vật chất). ước gì thời kỳ đen tối ấy không bị đánh dấu bằng một chiến tranh tàn khốc, khi mà:

Ngoài đồng rồng đánh lộn nhau,

Máu phun chan chứa, pha màu vàng, đen.

Tượng rằng: Rồng đánh lộn nhau,

Là vì vật chất tới cầu cực xương.

(Quẻ Khôn, hào Thượng lục).

Nhưng giữa tăm tối, ánh sáng sẽ hiện ra. Giữa chết chóc, sự tái sinh sẽ mầm mộng. Sau thời kỳ vật chất vô thần, con người sẽ hồi hướng lại và quay trở về với những giá trị tinh thần.

Sự hồi hướng ấy, sự sinh lại ấy, người xưa ví như là con người được thai nghén lại một lần nữa, vì thế nên trong các vòng biến hóa Can, Chi, Trường sinh, người xưa đã dùng những chữ như Tí 子 (Tí = tử = con); NHÂM 壬 (đồng âm với Nhâm 妊 là có mang), hoặc THAI 胎 (thai nghén)...

Trong tương lai, nhân loại sẽ đi lại ba chữ ĐỊA, NHÂN, THIÊN, nhưng là ba chữ ĐỊA, NHÂN, THIÊN huy hoàng trong ánh CHÂN, THIỆN, MỸ. Trong chiều hướng này tầm nhìn lối nghĩ của nhân loại hoàn toàn thay đổi. Trước kia nói xuôi là đúng; nay nói ngược lại thấy đúng hơn.

Ví dụ: như thời xa xưa, nhân loại tin rằng vương quyền, giáo quyền là do Trời «ban xuống». Ngày nay nhân loại cho rằng quyền cai trị là do dân «ban lên». Dù là Thống Đốc, dù là Tổng Thống cũng là do dân bầu lên, dù là dân nghèo nàn, dân ngu dốt. Lễ phong vương như vậy không còn do một người làm, mà là do cả nước đứng ra cử hành. Chính quyền sẽ không còn có thể độc tài, mà phải trọng dân, thuận dân. Nhân loại sẽ dần dần sửa sai. Sửa sai trước hết về phương diện sử dụng đất đai, về phương diện sử dụng năng lượng, về phương diện hành sử quyền trị dân. Có chịu sửa sai, rồi ra mới hành sử đúng, mới trở nên hoàn thiện được.

Nhân loại sẽ dần dần cải tiến hơn mãi: Cải tiến mãi mãi về phương diện kỹ thuật, cải thiện về phương diện tổ chức đời sống vật chất, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng.

Nhân loại sẽ dần dần khai thác được năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử, để con người sống được khoẻ mạnh hơn, sung sướng hơn, sống lâu năm hơn. Sa mạc sẽ dần dà biến thành đồng nội; đáy biển sẽ trao lại cho loài người những kho tàng mà nó cất dấu; nước mặn sẽ rất dễ biến chế thành nước ngọt; và biết đâu chẳng tìm ra được một tinh cầu khả dĩ di dân lên được để tránh nạn nhân mãn. Trong thời tương lai cái điều mà nhân loại sẽ sửa sai là nạn chiến tranh binh lửa. Con người sẽ tin ở sức mạnh của muôn triệu con người; sức mạnh của con tim, khối óc muôn triệu con người, và sẽ bắt tay nhau làm được những chuyện thần kỳ, vượt quá sức tưởng tượng của con người ngày nay.

Sau khi đã chỉnh trang lại đời sống ngoại cảnh, xác thân, quốc gia xã hội, vật chất bên ngoài, con người sẽ bước lên chữ NHÂN. Con người sẽ ăn ở theo đúng với danh hiệu con người, sẽ sửa sang TÂM HỒN mình cho nên đẹp tươi, cho nên tế nhị.

Con người sẽ ăn ở dần dần đúng với đạo làm người, biết đối đãi với nhau cho thật đẹp đẽ. Con người sẽ bớt hờn giận, bớt hung tàn, bớt si mạn. Tội ác sẽ dần dần giảm thiểu trong xã hội. Nhà tù ở gian trần, địa ngục dưới âm ti sẽ dần dần trở nên hoang vắng, vì không còn khách vãng lai... Con người dần dần thấy rằng những điều xưa kia mình coi là tội lỗi, chính là sản phẩm của những cái nghĩ sai, nhìn sai, cư xử sai của mình đối với mình, đối với người mà thôi... Và biết bao là nỗi niềm đau xót của nhân quần thật ra đã được gây ra bởi sự ngu dốt của con người, bởi sự ngạo mạn, bởi sự hẹp hòi, bởi sự bất khoan dung, và bởi sự hung tàn; hung tàn nhiều khi lại đã được phủ lên trên bằng một lớp phấn son từ ái...

Cuối cùng, con người sẽ đi lại chữ THIÊN. Con người sẽ nhận thấy mình có THIÊN TÍNH, có CHÂN TÂM. Con người sẽ thấy mình thuộc dòng dõi sang cả... Đúng như lời của Teilhard de Chardin con người sẽ tiến tới THẦN LINH... Lúc ấy con người sẽ thấy lề luật Trời, lề luật thiên nhiên hiển hiện ra trong LƯƠNG TÂM mình; người với người sẽ trở nên bình đẳng không còn sư đệ qua phân...

Con người sẽ không còn bị giáo quyền ràng buộc, giáo phẩm chỉ huy. Lúc ấy con người sẽ sống một cuộc sống hết sức đẹp đẽ, hết sức hồn nhiên tiêu sái. Đúng là cảnh thần tiên sẽ trở lại nơi trần hoàn. Lúc ấy con người sẽ biết sống hòa hợp với thiên nhiên, sẽ đem tình thương yêu ban rải lên trên vạn vật; sẽ làm cho cảnh vật ngày một thêm tươi, thêm đẹp. Lúc ấy con người về phương chính trị, xã hội, sẽ hưởng tự do, sẽ an cư lạc nghiệp. Về phương diện gia đình sẽ trên thuận, dưới hòa. Về phương diện hình hài, thân xác, sẽ khang kiện. Về phương diện tâm hồn, sẽ bình thản, vui tươi. Về phương diện tâm linh sẽ định tĩnh.

Tóm lại con người sẽ sống một cuộc đời lý tưởng, toàn diện, toàn bích. Con người mới thấy rằng chính mình đã tự cứu lấy mình. Chính thần linh nội tại trong mỗi một người đã hiển linh để đưa đến thành quả tối hậu như lúc ấy...

Lịch sử theo triết học là còn ở trong vòng biến thiên, chịu sự chi phối của ngoại cảnh, của không gian, thời gian... Con người sau khi đã sống trong vòng tương đối hữu hạn sẽ siêu thăng, để sống trong vô biên, và vĩnh cửu. Định mạng siêu việt đó của con người đã dành để cho con người từ muôn thủa....

Suy cho cùng, thì tất cả các học thuyết Ấn Độ, Phật giáo, Lão giáo, Kỳ Na giáo cũng cho rằng tự do siêu nhiên, tự do tinh thần là cứu cánh lịch sử. Nói vậy có nghĩa là phải thoát ly khỏi sự buộc ràng của thế giới vật chất, thoát ly khỏi sự tham luyến hồng trần do vọng tâm, vọng ngã gây nên; thoát ly khỏi thế giới phân kỳ, tán loạn để trở về với thế giới hoà đồng hợp nhất của tâm linh, trở về với Nhất, với Trung tâm điểm, vừa là Tâm điểm, vừa là tất cả.

Nói cách khác, Sử quan này có mục đích là cho chúng ta thấy rằng lúc chung cuộc, khi con người đã chín chắn, đã khinh khoát, đã khôn ngoan sẽ nhận ra rằng sự sống phân kỳ, riêng rẽ của tiểu ngã thực ra là một ảo ảnh, và đời sống con người có mục đích là hòa đồng hợp nhất với Đại thể, với Tâm điểm và cũng là với Vô Cùng, với Toàn thể vô biên.

Cứu cánh của con người, như là một cá thể hữu hạn, chính là sự nhận ra được rằng mình đồng hóa với Tuyệt Đối, với Vô biên...[9]

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh