Sống Trong Trái Tim: Chương 3. Học Từ Các Bộ Lạc Thổ Dân

SỐNG TRONG TRÁI TIM: CHƯƠNG 3. HỌC TỪ CÁC BỘ LẠC THỔ DÂN

§ Những trưởng lão thổ dân bản địa Úc chia sẻ năng lượng

  • Sức mạnh của lời cầu nguyện của người Maori đến từ trái tim
  • Trải nghiệm của người Kogi
  • Người phụ nữ Colombia
  • Hợp nhất với ngựa
  • Mời một người khác vào không gian thiêng liêng

Thời gian biết đến những đứa trẻ siêu ngoại cảm, xuất hiện một manh mối khác liên quan đến việc nhìn trong bóng tối. Những manh mối này tuy tinh tế nhưng lại vô cùng quan trọng góp phần đưa tôi đến không gian thiêng liêng và bí mật trong trái tim, nguồn gốc cho những hình ảnh khó tin và những kiến thức mà những trẻ em này nhận được.

Dần dần, những bộ lạc thổ dân từ khắp nơi trên thế giới đã ghép nối một mảnh khác cho bí mật vĩ đại, cho phép tôi nhớ lại một điều cổ xưa về tinh thần con người. Thành viên của nhiều bộ lạc nói rằng thông qua tôi, những thay đổi bên trong thế giới công nghệ sẽ bắt đầu, đưa hành tinh đến hòa bình và cân bằng sinh thái.

Những trưởng lão thổ dân bản địa Úc chia sẻ năng lượng

Vào giữa những năm 1900, tôi được mời phát biểu tại Hội thảo về cá voi và cá heo ở Úc. Đến Queensland, tôi bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của mảnh đất này với những rạn san hô Great Barrier Reef chạy dài hơn 1.600 km. Thật là nơi tuyệt đẹp để sống!

Hàng trăm người từ khắp nơi trên thế giới đến đây để thảo luận về cá voi và cá heo, cùng những chủ đề liên quan, như môi trường thế giới. (Hiển nhiên là, không những chỉ cá heo và cá voi mà tất cả các sinh vật sống khác sẽ không sống sót trừ khi chúng ta, con người thay đổi cách sống).

Vào thời gian đó, tôi đang thực hiện thí nghiệm cùng với R-2 và đi đến kết luận rằng một người, khi kết nối với Mẹ Trái đất có thể thay đổi môi trường bằng cách sử dụng thân thể ánh sáng của mình, tức là Mer-Ka-Ba. Tôi bị cuốn hút vào ý tưởng này đến nỗi khi đến lượt mình, tôi bắt đầu thuyết trình về vấn đề này với khán giả từ quan điểm hoàn toàn cá nhân. Tôi nhấn mạnh rằng chúng ta tạo ra thế giới xung quanh bằng ý nghĩ và cảm xúc của mình, và rằng bằng sự liên kết với Mẹ Trái đất từ trong trái tim, thì mọi việc đều có thể - thậm chí như là làm sạch môi trường chỉ nhờ vào thân thể ánh sáng của con người.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Kết thúc bài nói chuyện, tôi đi xuống khỏi sân khấu, đi về chỗ ngồi của mình trong phòng để đợi bài thuyết trình của một diễn giả khác. Nhưng tôi bị chặn ngang bởi một nhóm năm hoặc sáu người thổ dân bản địa Úc. Họ mời tôi tới nhập nhóm của họ, tôi làm theo, không mảy may suy nghĩ.

Các vị trưởng lão này dẫn tôi vào giữa nhóm của mình và nói rằng tôi là người da trắng đầu tiên mà họ biết nói lên sự thật mà họ hiểu. Họ nói rằng Mẹ Trái đất cung cấp mọi thứ cần thiết mà không cần phải vật lộn để tồn tại, rằng thế giới chỉ là ánh sáng và rằng nhận thức của con người vượt xa những gì người da trắng vẫn nghĩ. (Họ coi chúng ta, một biến thể từ cấp độ nhận thức của họ, là những đứa trẻ đang học hỏi về thế giới bên ngoài).

Một cụ già nói họ sẽ hỗ trợ tôi trong thời gian tôi ở Úc, nếu tôi đồng ý. Tôi hoàn toàn không hiểu, sự “hỗ trợ” của họ có hàm ý gì, nhưng tất nhiên là tôi vẫn đồng ý vì dù sao thì họ cũng thực sự là những người anh lớn.

Sau đó tôi quyết định diễn thuyết tại các thành phố khác trên nước Úc như Brisbane, Melbourne và Sydney. Lần nào cũng vậy, vào thời gian đầu của buổi nói chuyện, khi tôi hướng ánh mắt xuống phía người nghe, tôi đều thấy những vị trưởng lão đó ngồi ở cuối phòng, theo một vòng tròn và niệm trú khe khẽ.

Một số buổi diễn thuyết có hơn một nghìn người, nhưng dòng năng lượng đến từ những người thổ dân đó vẫn đủ mạnh để tôi có thể cảm nhận được rung động của nó ở trong phòng. Tôi không biết họ đã tìm tôi và vượt qua các quãng đường dài bằng cách nào vì họ không có ôtô, nhưng lần nào họ cũng ở đó.

Điều cuối cùng họ nói trước khi tôi rời khỏi nhóm của họ tại Hội thảo về cá voi và cá heo là: “Hãy nhớ đến bóng tối và trái tim, khi sáng tạo”. Vào lúc đó, những lời này không có ý nghĩa gì với tôi.

Sức mạnh của lời cầu nguyện của người Maori đến từ trái tim

Một thời gian ngắn sau khi trở về từ Úc, thủ lĩnh tinh thần của người Waitaha Maori, thổ dân bản địa của New Zealand đã liên hệ với tôi và hỏi về việc liệu họ có thể đến nhà tôi ở Mỹ để nói chuyện. Macki Ruka đưa ra lời đề nghị này thông qua Mary Thunder, một trưởng lão thổ dân bản địa da đỏ, người đã gọi điện cho tôi và trở Macki Ruka đến nhà tôi. Thực là thú vị vì từ trước tới nay tôi chưa hề tiếp xúc với những người thổ dân này, nhưng tôi làm sao có thể từ chối. Cùng được Mary Thunder dẫn đi với Macki Ruka là vài người tháp tùng của ông. Mary là một người bà tuyệt vời của bộ lạc Cheyenne và từ ngày đó đến giờ chúng tôi vẫn là những người bạn tốt của nhau.

Macki Ruka là một người đàn ông to lớn, cân nặng khoảng 160kg. Những người thanh niên tháp tùng mang theo những đồ cúng lễ linh thiêng mà ông cần cho buổi gặp mặt với tôi. Một vài đồ trong số đó nặng hơn 50 kg! Tôi không nhớ chính xác chúng là những cái gì nhưng chúng đều rất nặng và đôi khi cần tới hai người khiêng. Đồ cúng lễ được đặt cả xung quanh chúng tôi khi cuộc trò chuyện bắt đầu.

Đối thoại của chúng tôi chẳng mấy chốc dẫn cuộc thảo luận về sự tồn vong của thế giới và cách mà chúng ta, những thành viên của nền văn minh hiện đại, cần phải làm để nhớ lại minh triết cổ xưa để sống sót. Ông khẳng định rõ ràng rằng có những hình thức giao tiếp, mà nếu chúng ta nhớ lại được, có thể thay đổi cả thế giới. Đây là thông điệp chính của Macka Ruka. Chúng tôi trò chuyện suốt bốn tiếng đồng hồ về nhiều chủ đề, nhưng trước khi ra về, ông nói sẽ gửi một người nào đó từ bộ lạc của ông đến và bảo tôi hãy chờ người này. Không hiểu, những tôi vẫn đồng ý.

* * *

Vài năm sau, khi đang sống với gia đình tại Arizona, tôi dự định chuyển nhà từ Sedona đến Cave Creek. Tôi thuê một xe tải chuyển đồ và đang vật lộn để khuân hết thùng này đến thùng khác lên xe. (Thật không thể tin nổi, sau khi lấy vợ, tôi đã có thêm nhiều đồ vật thế này. Khi quen nhau, tôi và Claudette, mỗi người đều có một căn nhà riêng với đầy đủ đồ dùng sinh hoạt).

Khi tôi đang đi đi lại lại, khuân càng ngày càng nhiều đồ ra khỏi nhà và chất đống lên xe, một thanh niên trẻ mà tôi chưa từng gặp tiến đến và chào tôi. “Ông có cần tôi giúp không?”, anh chàng khoảng hai tám tuổi này nói với ngữ điệu California hoàn hảo. Cậu ta mặc quần bò cũ, áo phông trắng sạch sẽ, với một nụ cười tươi. Có thể, người này đã từng là hàng xóm của tôi, khi tôi sống thời niên thiếu ở California.

“Không”, tôi trả lời anh ta, “Mọi việc sẽ ổn thôi, chỉ còn ít đồ nữa”. Thực lòng, tôi rất cần giúp đỡ, nhưng tôi không muốn lợi dụng thiện chí của cậu thanh niên. Chàng trai trẻ nhìn vào mắt tôi, chân thành nhưng kiên quyết, anh ta nhẹ nhàng nói: “Tôi đang không có việc gì làm, tôi rất vui được giúp đỡ ông”. Vậy làm sao mà từ chối được chứ?

Thế là, chúng tôi bắt đầu làm việc cùng nhau. Anh thanh nhiên hóa ra rất ít nói và có vẻ chỉ tập trung vào công việc. Cứ thế chúng tôi làm việc trong im lặng. Khi chiếc xe tải đã đầy, tôi cảm ơn và hỏi liệu tôi có thể làm gì lại cho anh. Cậu ta trả lời “Không cảm ơn, nhưng tôi thực lòng muốn giúp ông bốc dỡ đống đồ này vào nhà mới, ông không phản đối chứ?”.

Tôi không thể tin là có người lại tốt đến thế. “Không, như thế thì đòi hỏi anh quá. Cảm ơn anh vì những việc anh đã làm cho tôi! Anh thanh niên, một lần nữa nhìn vào mắt tôi rồi nói: “Hãy để tôi giúp ông. Ông cần sự giúp đỡ của tôi mà tôi thì chả có việc gì khác để làm. Thật vậy, ổn cả mà”. Tôi bắt đầu có cảm giác đã gặp chàng thanh niên này rồi, ở đâu đó. Cậu ta như một người em trai thân thiết, cho nên tôi lại nghe theo: “Được rồi, lên xe đi. Nhưng cậu quả là không bình thường”.

Mất hai giờ ba mươi phút để đến nhà mới của tôi, vì vậy, tôi có nhiều thời gian để hỏi về anh thanh niên. Khi giúp tôi chất đồ lên xe, cậu ta hầu như không nói gì về bản thân mình, nhưng bây giờ cậu ta ở trên chiếc xe tải đi thuê cũ kỹ này với tôi.

Khi vừa đi khỏi Sedona, tôi hỏi cậu thanh niên từ đâu đến và gần như tin chắc rằng câu trả lời sẽ là “California”, nhưng anh ta lại trả lời “Từ New Zeland” mà không thêm một lời giải thích nào. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta: “Tôi tưởng cậu đến từ Carlifornia. Chắc là cậu đã từng sống ở đó một thời gian?”

Không nhìn tôi, cậu ta trả lời “Không, đây là lần đầu tiên tôi đến Mỹ.

Tôi tới đây hai tuần trước”.

Tôi lập tức quay sang cậu ta: “Thế hả, cậu học tiếng Anh ở đâu mà có ngữ điệu California chuẩn thế?”. Câu trả lời của cậu ta làm tôi choáng váng cả người: “Tôi học ba tuần trước ở bộ lạc của tôi”. Sự tò mò của tôi chuyển thành mong muốn được tìm hiểu thêm: “Cái gì cơ? Cậu thành thạo tiếng Anh trong thời gian ít hơn một tháng sao?”. “Vâng, nó cũng dễ”.

Trước khi tôi kịp hoàn hồn, thì cậu nói: “Ông có nhớ Macki Ruka không? Ông ấy gửi tôi đến đây”. Tôi gần như đã quên lời hứa của Macki Ruka về việc gửi đến tôi một người nào đó từ bộ lạc của ông. Tôi thậm chí không đủ sức thốt lên: “Không thể như thế!”. Dù sao, phủ nhận cũng việc là ngớ ngẩn, điều này ắt hẳn phải là sự thật. Bởi vì không ai có thể biết về lời hứa này, trừ tôi.

Thời khắc đó tôi hiểu rằng mình đang có một trải nghiệm tâm linh sâu sắc, năng lượng trong thân thể tôi thay đổi. Tôi hỏi người đồng hành: “Cậu tìm thấy tôi như thế nào?”. Câu trả lời thật rõ ràng: “Dễ thôi, tôi đi theo trái tim”.

Ngừng một lúc, cậu ta nói tiếp: “Thật sự là, đầu tiên tôi phải đến gặp người Hopi. Tôi được chỉ dẫn rằng bộ lạc của tôi và người Hopi cần chia sẻ những lời tiên tri và tôi được lựa chọn để đến gặp họ. Sau đó, tôi được bảo đi tìm ông. Thế là tôi đi thẳng đến gặp người Hopi”. Rồi chàng thanh niên hỏi liệu cậu ta có thể kể cho tôi chuyện xảy ra ở đó, như thể là tôi sắp không cho cậu nói. Rất ít người có thể tin vào câu chuyện của anh ta, nhưng tôi sẽ thuật lại cho bạn y như anh ấy đã kể cho tôi.

Chàng trai trẻ ngồi lại cho thoải mái trên ghế của chiếc xe tải cũ, hơi quay đầu về phía tôi. “Tôi tới Third Mesa khi đêm đã khuya. Bằng cách nào đó họ (người Hopi) đã biết trước sự xuất hiện của tôi và đã chuẩn bị sẵn chỗ nghỉ cho tôi. Ngày hôm sau, họ dẫn tôi vào trong một trong những căn phòng tế lễ nửa chìm nửa nổi của họ và giữ tôi ở đấy ba ngày, ba đêm. Chúng tôi hoàn toàn ở trong bóng tối”.

“Khi cần đưa ra những yêu cầu giản đơn, họ nói tiếng Tây Ban Nha, thứ tiếng mà tôi cũng biết. Còn phần lớn thời gian, họ trao đổi với tôi thông qua hình ảnh và linh ảnh tương lai phản ánh tiên tri của họ. Đáp lại, tôi truyền cho họ tiên tri của chúng tôi về tương lai. Vào đêm thứ ba, họ đặt vào tay tôi một cái nồi đất cũ và hỏi tôi cảm thấy gì”.

“Thành thật mà nói, đầu tiên tôi chả thấy gì đặc biệt, nhưng sau khi giữ nó trong tay vài tiếng đồng hồ, một làn sóng nhận thức ào đến, theo sau là một linh ảnh mạnh mẽ. Tôi thấy vài trăm năm trước tôi cũng đã từng là người Hopi và chính tôi đã làm chiếc nồi này. Tôi cũng nhớ rằng, một hình ảnh được tôi đặt vào trong nồi để đánh thức ký ức của chính mình hàng trăm năm sau đó trong tương lai”.

“Linh ảnh này khiến tôi nhớ lại tất cả về bản thân và cuộc sống của tôi với người Hopi. Thật thoải mái và kỳ diệu khi nhớ lại được tất cả. Tôi cũng nhớ lại luôn ngôn ngữ của người Hopi. Từ lúc đó, chúng tôi chỉ giao tiếp bằng ngôn ngữ này. Ba ngày đã trôi qua như thế”.

Liệu có thể nói gì về câu chuyện này? Sau một khoảng lặng, tôi hỏi: “Cậu có thể chia sẻ cho tôi những lời tiên tri là gì không?”. Chàng trai nhìn tôi với vẻ như cậu thực sự muốn nói, nhưng lại trả lời: “Xin lỗi, tôi không thể nói về những lời tiên tri với bất cứ ai”.

Sau đó câu chuyện quay về những điều thông thường đã xảy ra từ khi cậu ta đến Mỹ. Chàng trai trẻ cho rằng đây là một chỗ bất bình thường để sống. Cậu ta cảm rằng chúng ta đã bị cách ly với thiên nhiên và thực tại, còn TV được cậu gọi là “sự thủ dâm của tâm trí”.

Chẳng mấy chốc chúng tôi đến nơi. Tôi đỗ xe tải bên lối vào nhà. Và một lần nữa, anh thanh niên lại chăm chú dỡ đồ và nói chuyện rất ít. Khi công việc xong xuôi, người khách đề nghị thực hiện một nghi lễ trên mảnh đất mới, trước khi chúng tôi quay về Sedona. Buổi lễ là một bài học lớn về sức mạnh của lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim.

Mảnh đất chúng tôi mua gần như là một hình ngũ giác. Người bạn Maori này xin phép cầu nguyện ở năm góc của miếng đất. Tất nhiên là tôi đồng ý. Chúng tôi cùng nhau đến từng điểm và cậu thanh niên cầu nguyện với lòng thành kính sâu sắc: “Hỡi Đấng Sáng tạo yêu quý, hãy nghe lời cầu nguyện của tôi cho bạn Druvalo”. Cậu ta tiếp tục xin cho tất cả các sinh vật có thể tìm thấy chỗ ẩn náu trên mảnh đất này, cho tất cả mọi người sống nơi đây được khỏe mạnh, hạnh phúc và không bao giờ bị tổn thương; và cuối cùng để không ai có thể lấy chỗ đất này của tôi. Ngôn từ cậu dùng thì còn nhiều, nhưng ý chính là như vậy.

Ngay khi chúng tôi quay lại Sedona, cậu thanh niên ôm tôi thật chặt, nhìn vào mắt tôi lần cuối, rồi đi. Tôi không gặp lại cậu ấy nữa.

* * *

Khi chuyển đến nhà mới, tôi và vợ để ý thấy các sinh vật ngủ đầy trên mặt đất. Mảnh đất chỉ rộng một hecta và khoảng một nửa diện tích là nhà. Trên không gian nhỏ bé còn lại, ngủ sát bên nhau là những con vật, mà bình thường không ở gần nhau, như hươu, lợn rừng và chó sói. Trong tự nhiên, chó sói Bắc Mỹ thường ngủ trong hang, nhưng ở đây chúng ngủ, con nọ cách con kia, vài mét. Chúng tôi thường đùa vui về lời cầu nguyện của người Maori, mà đưa đến ở chỗ chúng tôi từng ấy loài động vật. Mặc dù, có nhiều bọ cạp, rắn chuông và thằn lằn độc, nhưng không ai bị chúng cắn.

Sau ba năm rưỡi, chúng tôi lại quyết định chuyển nhà. Đây là một khu vực rất đông dân, nên người môi giới tin rằng có thể chúng tôi có thể bán nhà sau nửa tháng hoặc nhiều nhất là một tháng. Nhưng sau gần một năm, với hàng trăm người mua tiềm năng, ngôi nhà xinh đẹp của chúng tôi vẫn không bán được. Chúng tôi không biết cần phải làm gì.

Một lần, Claudette tỉnh dậy giữa đêm và đánh thức tôi: “Drunvalo, anh có nhớ anh chàng Maori đã xin rằng không ai có thể lấy mảnh đất này của chúng ta. Chúng ta cần phải hủy bỏ lời nguyện này, nếu không ngôi nhà này sẽ không bán được”. Ngày hôm sau, chúng tôi cùng nhau đi đến năm góc của miếng đất và xin thay đổi những lời cầu nguyện trước. Sau năm ngày thì có người mua ngôi nhà của chúng tôi.

Trải nghiệm với bộ tộc Kogi

Chính nhờ người Kogi, trải nghiệm của tôi với những người thổ dân không chỉ còn là những bài học về tâm linh và tiềm năng con người, mà trở thành điều gì đó lớn hơn. Họ dạy tôi và làm sáng tỏ cho tôi ý nghĩa tâm linh của khả năng nhìn trong bóng tối. Không có sự giúp đỡ của họ, tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được khoảng không gian thiêng liêng bên trong trái tim. Tôi mãi mãi chịu ơn người Kogi vì sự giúp đỡ chứa chan yêu thương của họ.

Khi tôi vừa kết thúc một cuộc hội thảo Mặt đất và Bầu trời ở Maryland, Mỹ, một thanh niên da trắng đến gần tôi và nói rằng anh ta là phái viên của người Maya ở Guatemala. Anh cần phải chuyển cho tôi một thông điệp của bộ lạc Kogi, sống ở vùng núi Sierra Nevada, Colombia, Nam Mỹ. Tôi nghe anh ta chăm chú mặc dù chưa từng nghe về người Kogi.

Làng Kogi

Chàng trai giải thích rằng người Kogi là một trong số ít các bộ lạc,vào thế kỷ XVI, đã chạy trốn khỏi sự truy xét của người Tây Ban Nha để tới vùng núi cao Sierra Nevada de Santa Marta. Khu vực đó rất cách biệt, nên bộ lạc vẫn giữ được một phần văn hóa và tín ngưỡng nguyên thủy của mình. Thậm chí, cách sống của người Kogi bây giờ vẫn không khác nhiều lắm với cách sống của họ một nghìn năm trước đây.

Trong bộ lạc có một nhóm mà người Kogi gọi là Mama. Các Mama được cho không phải là người bình thường mà là một phần của nhận thức của Trái đất, phần đảm bảo cho hệ sinh thái của thế giới. Người Kogi tin rằng, không có các Mama, Trái đất sẽ bị hủy diệt.

Các Mama là lãnh tụ tinh thần của bộ lạc Kogi và được kính trọng như là Chúa Jesus với người theo đạo Thiên chúa, hoặc Mohammed với người theo đạo Hồi. Theo lời của anh thanh niên, Mamacó khả năng nhìn thấy trong bóng tối hoàn toàn. Họ quan sát thế giới bằng linh ảnh bên trong và sự liên hệ sâu sắc với Mẹ Trái đất mà họ gọi là Aluna.

Dân làng Kogi

Điều thú vị nhất là khi một đứa trẻ có định mệnh trở thành một Mama được phát hiện trong bộ lạc Kogi, nó được đưa đến một chỗ rất khác thường để được nuôi dạy một cách đặc biệt. Thời xưa, đó là một cái hang tối đen, nhưng ngày nay đứa trẻ được đưa đến một tòa nhà xây dựng chỉ từ vật liệu tự nhiên mà không một tia sáng nào có thể lọt vào trong.

Trong bóng tối hoàn toàn, đứa trẻ đặc biệt này được nuôi lớn bằng thức ăn màu trắng và sẽ chỉ tiếp xúc vừa đủ với ánh sáng để không bị mù. Đứa trẻ cũng trải qua sự huấn luyện tinh thần đặc biệt. Trong suốt chín năm đầu, đứa trẻ ở trong bóng tối, học nhìn không dùng mắt, giống như những đứa bé siêu ngoại cảm đang xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Vào tuổi thứ chín, đứa trẻ được đem ra ngoài ánh sáng để học nhìn bằng mắt. Thật là một trải nghiệm mãnh liệt. Hãy hình dung cảm giác của một người nhìn thấy hành tinh tuyệt vời này lần đầu tiên năm chín tuổi!

Người thanh niên kể tiếp một câu chuyện khác, về lý do mà anh được gửi đến gặp tôi. Anh nói các Mama Kogi không những có thể nhìn thấy bất cứ nơi nào trên Trái đất mà còn có khả năng nhìn về tương lai, giống như người Hopi, người Maori và nhiều bộ lạc thổ dân khác trên Trái đất. Anh nói thêm, trong suốt lịch sử của bộ lạc, các Mama chưa một lần tiên đoán sai.

Theo các Mama, sau nhật thực cuối cùng của thế kỷ XX, vào ngày 11 tháng 08 năm 1999, tất cả các dân tộc thuộc nền văn hóa kỹ trị sẽ buộc phải

chuyển tới một chiều khác của hành tinh đa chiều này, các bộ lạc thổ dân và những người sống hài hòa với thiên nhiên thừa kế Trái đất vật lý. (Điều này gợi nhớ đến những lời trong Kinh thánh rằng “Những người hiền lành sẽ thừa hưởng Trái đất”. Tiên đoán này tương tự với câu nói của “nhà tiên tri ngủ”, Edgar Cayce về sự dịch chuyển của cực Trái đất vào mùa đông năm 1998, kéo theo những thay đổi to lớn trên Trái đất. Nhiều người theo phong trào New Age nghĩ rằng điều đó có nghĩa là phần lớn nhận thức của thế giới sẽ đi sang chiều thứ tư).

Anh thanh niên tiên sát bên tôi, như để chuẩn bị nói một điều rất quan trọng. Anh hạ giọng và thì thầm: “Vào ngày 12 tháng 08 năm 1999, các Mama Kogi phát hiện rằng chúng ta, những người thuộc nền văn hóa kỹ trị vẫn ở đây trên Trái đất. Và để tìm hiểu tại sao lần đầu tiên trong lịch sử bộ lạc, lời tiên tri không thành hiện thực, họ đã tiến hành thiền định rất sâu”.

Trong bóng tối, các Mama Kogi nhìn thấy ánh sáng khắp trên bề mặt hành tinh, mà trước đó chúng chưa có. Để tìm hiểu về ánh sáng, các Mamas thấy rằng đó là ánh sáng của những người, đã biết về thân thể ánh sáng, mà thời cổ gọi là Mer-Ka-Ba. Các Mama Kogi tin rằng những con người với cơ thể ánh sáng này đã thay đổi tiến trình lịch sử.

Là một người giảng dạy về Mer-Ka-Ba, tôi biết rằng sau khi nhớ lại cơ thể ánh sáng của mình, chúng ta có thể luyện tập theo một cách thức nhất định để thay đổi thế giới bên ngoài nhờ vào việc thay đổi suy nghĩ và cảm xúc. Theo các Mama Kogi, một số người trong chúng ta đã thực sự thay đổi thế giới bên ngoài đến mức sáng tạo nên một thực tại mới. Đây chính là điều mà những lãnh tụ tâm linh Kogi không dự đoán được, bởi vì sự thay đổi không xuất phát từ quá khứ mà lại từ tương lai. Và nếu điều đó là sự thật, nó hé lộ một tầng sâu hơn về bản chất của tiềm năng con người. (Chỉ để bổ sung thông tin, các Mama Kogi không nghĩ rằng chúng ta biết sử dụng khả năng bên trong này).

Còn một điều này nữa. Khi tôi tiến hành thí nghiệm làm sạch không khí đầu tiên bằng R-2, sau đó bằng trường Mer-Ka-Ba của mình, Không quân Mỹ liên hệ với tôi và trong một buổi nói chuyện cá nhân cho tôi biết một điều thú vị. Theo lời kể của các học viên các khóa học về Mer-ka-ba và theo chứng kiến cá nhân, thời điểm một người kích hoạt Mer-Ka-Ba lần đầu, người đó có thể thấy vài chiếc máy bay trực thăng màu đen xung quanh. Những chiếc trực thăng hiếm khi đi luôn mà ở lại và bay vòng vòng theo họ trong vài tuần thậm chí vài tháng. Một thiếu tá không quân nói với tôi rằng khi đĩa Mer-Ka-Ba bắt đầu nở rộng, một người trong trường đó tỏa ra năng lượng (xung từ) bằng một thành phố với khoảng mười lăm nghìn người. Người sỹ quan này nói rằng vệ tinh của Không quân Mỹ có thể phát hiện ra cơ thể ánh sáng của một người và hiển thị hình ảnh trên màn hình máy tính. Điều đó trong vài năm đã làm quân đội lo ngại, nhưng bây giờ họ hiểu nó là một phần của nhận thức mới vừa được hé mở trên Trái đất. Nếu Không quân Mỹ có thể “nhìn thấy” trường Mer-Ka-Ba, thì tại sao các Mama Kogi lại không làm được?

Chàng trai trẻ nhìn tôi hồn nhiên và nói: “Các Mama Kogi muốn cảm ơn ông vì đã dạy về Mer-Ka-Ba và vì đã thay đổi thế giới theo hướng này”. Sau đó, anh ta đưa cho tôi một gói thuốc lá nhỏ quấn trong một mảnh vải đỏ, món quà của các Mama để bày tỏ sự trân trọng. Tôi không chuẩn bị để nhận tặng phẩm bất ngờ này, vì thế tôi nhìn ra xung quanh, lấy một bông hoa hồng đỏ gần đó, gửi anh thanh niên để đáp lễ cho các Mama. Cuộc gặp gỡ kết thúc.

Khi người khách đi khỏi, tôi suy nghĩ về sự việc xảy ra trong chốc lát, nhưng tôi nhanh chóng quên mất những người Kogi khi quay lại thế giới quen thuộc của mình. Tôi không nghĩ rằng mình sẽ nhận còn được thông điệp từ họ.

Một vài tháng trôi qua và sau khi kết thúc một hội thảo khác, người thanh niên lúc trước lại đến bên tôi với một thông điệp từ các Mama Kogi. Anh nói rằng những người cử anh đến đây muốn gặp tôi để dạy tôi “ngôn ngữ không lời”. Anh bảo đi đến Mỹ là một việc rất không bình thường với họ, bởi vì chỉ có ba người trong số họ đã từng rời Colombia, nhưng nếu tôi yêu cầu, họ sẽ tìm cách. Họ rất mong muốn tôi sẽ đi đến Sierra Nevada de Santa Marta để gặp họ ở đó.

Tôi suy nghĩ về lời đề nghị này một lúc, sau đó tôi đi vào thiền định sâu để hỏi hai thiên thần của mình. Cả hai nhìn tôi và lập tức cho phép tôi theo đuổi cuộc phiêu lưu này dù nó sẽ dẫn tôi tới bất kỳ đâu. Tôi mở mắt và trả lời “Vâng, tôi đồng ý”.

Tôi có hai sự lựa chọn, hoặc tự đi đến vùng núi Colombia, hoặc mời các Mama đến đây tìm tôi. Lịch làm việc của tôi đã được bố trí dày đặc cho hết cả năm sau, nên tôi đề nghị họ đến. Không chần chừ, người phái viên trả lời: “Tôi sẽ truyền đạt lại câu trả lời của ông” và rời đi không nói thêm một lời nào.

Trên máy bay trở về nhà, tôi có thời gian suy nghĩ về câu chuyện này. Mặc dù không biết cách các Mama Kogi sẽ tìm tôi, tôi tin rằng họ sẽ làm được. Tôi đã chứng kiến những người thổ dân tương tác với thế giới hiện đại bằng những cách mà người thường không thể nào tin nổi. Đây là một ví dụ. Những người da đỏ ở Taos Pueblo, New Mexico mời tôi tham gia một buổi lễ nhằm hàn gắn xung đột giữa người da trắng và người da đỏ. Buổi lễ được những tín đồ Peyote, tín ngưỡng thổ dân bản địa Mỹ ở Taos Pueblo, dự định thực hiện lúc mặt trời mọc vào một ngày định trước.

Đến ngày lễ, khi mặt trời mới ló ra ở chân trời, ba pháp sư của bộ lạc Huichol da đỏ xuất hiện bên đám lễ của chúng tôi và xin phép được tham gia. Họ mặc trang phục nghi lễ trang trọng, với lông chim trên tóc và hình vẽ trên mặt và người.

Jimmy Reyna, người bản địa Taos Pueblo chủ tọa buổi lễ, hỏi làm sao những người khách biết về sự kiện này, bởi vì những người tham gia đã được yêu cầu từ trước không được kể về nó với bất kỳ ai. Các pháp sư trả lời rằng trong một buổi lễ Peyote ở Mexico họ đã nhìn thấy linh ảnh của buổi lễ này. Các trưởng lão của bộ lạc nhất trí cử ba người của họ đến dự buổi lễ của chúng tôi, vì thế họ đã mặc trang phục phù hợp và đi bộ cả quãng đường dài đến Taos-Pueblo.

Rất đáng kinh ngạc! Bộ lạc Huichol sống cách biên giới Mỹ bốn trăm tám mươi cây số, sau khi vượt qua biên giới, nhóm người này còn phải đi bộ thêm một quãng đường dài bốn trăm tám mươi cây số nữa để đến Taos- Pueblo, tổng cộng gần một nghìn cây số mà không bị ai ngăn cản. Họ vượt sông Rio Grande, băng ngang đường cao tốc, trèo qua hàng rào dây thép gai và tới nơi năm phút trước khi buổi lễ bắt đầu, cả quãng đường trong lễ phục chỉnh tề. Cuộc sống và tiềm năng của con người vĩ đại hơn rất nhiều điều mà phần lớn chúng ta vẫn chấp nhận.

Vậy là, tôi bắt đầu chờ đợi các Mama Kogi liên lạc với mình, mặc dù không tưởng tượng nổi bằng cách nào điều đó xảy ra.

Người phụ nữ Colombia

Hai tới ba tháng sau, tôi tới thành phố Cuernavaca, không xa thành phố Mexico, dạy khóa Mặt đất và Bầu trời tại. Hơn một trăm người có mặt, trong số đó khoảng hai mươi người đến từ Colombia.

Một người phụ nữ Colombia, ngoài bốn mươi tuổi, trông bình thường như bao phụ nữ hiện đại khác, đã thay đổi hoàn toàn, khi lớp học thực hiện một nghi lễ, nhằm đánh thức cảm nhận về sự hiện diện của Đấng Sáng tạo, nhờ vào một điệu nhảy hay một bài thánh ca. Cô ấy trở nên hoang dã và nguyên thủy; với những chuyển động, buông lơi và cuồng nhiệt của một người hoàn toàn thả mình vào âm nhạc hoặc thánh ca, hành vi không ai chờ đợi đối với một người phụ nữ hiện đại.

Với tôi, cảnh tượng này đơn giản là rất đẹp, nhưng những người Colombia còn lại cảm thấy rất xấu hổ. Hành vi “lạ lùng” của người phụ nữ cứ tiếp tục lại vào mỗi ngày trong bốn ngày hội thảo những người đồng hương của cô càng lúc càng mất kiên nhẫn hơn.

Vào ngày thứ ba, cả lớp đứng thành một vòng tròn, cùng hát những âm thanh nhất định để nâng cao nhận thức. Với dáng điệu bất thường, người phụ nữ Colombia phá vòng tròn, đi vào giữa, nhảy hoang dã theo nhịp ca. Sau mười lăm phút sau, nhóm người Colombia không chịu nổi nữa và ra hiệu cho tôi dừng cô ấy lại. Tôi thực lòng không muốn làm thế vì với tôi vũ điệu của cô ấy rất đẹp. Nhưng vì tôn trọng mọi người, tôi đi đến trung tâm của vòng tròn để đưa cô ấy về chỗ của mình.

Khi tôi lại gần người phụ nữ, cô ấy quay lưng về phía tôi. Tôi chạm nhẹ vào vai cô, người phụ nữ quay tròn nửa vòng. Cô ấy nhìn qua mắt tôi, đi thẳng vào tâm hồn tôi, còn cơ thể cô ấy phát ra một tiếng động bất thường, bao bọc toàn bộ cơ thể tôi. Trong khoảng khắc đó, căn phòng ở Cuernavaca biến mất, tôi xuất hiện ở một chỗ xa lạ. Ở đó có những túp lều rơm, những người mặc quần áo trắng đứng xung quanh nhìn tôi. Tất cả thực đến nỗi, thậm chí còn có cả một con chó chạy qua.

Tôi không còn trong thân thể của mình, mà trong một thân thể phụ nữ và nhìn mọi thứ xung quanh. Một cảm giác kỳ lạ, chưa từng biết tới, dâng lên xuyên qua tôi, rất dục cảm, mà cũng không phải thế. Có thể nói rằng, tôi cảm thấy rất, rất dễ chịu. Đúng lúc tôi bắt đầu chấp nhận thực tại mới này, thì thình lình tôi lại xuất hiện trong căn phòng cũ ở Cuernavaca, nhìn chằm chằm vào mắt người phụ nữ Colombialạ lùng này. Tôi chưa bao giờ có trải nghiệm gì giống như thế, mặc dù đã qua không ít trạng thái bất thường.

Vào lúc đó, tôi chỉ biết một điều duy nhất là muốn được trải qua cảm giác đó lần nữa. Quên hết vai trò chỉ đạo cả nhóm hát thánh ca, tôi kéo tay người phụ nữ ra một góc. Ngồi xuống cùng cô và nhìn thẳng vào cặp mắt mở to màu hạt dẻ, tôi nói: “Làm ơn, hãy làm lại điều đó”.

Cô ấy mỉm cười và phát ra âm thanh ban nãy, và một lần nữa tôi không còn ở Cuernavaca, Mexico, mà ở Colombia. Theo lời của học viên, những người đã ngừng hát và quan sát điều xảy ra, tôi đã ở trạng thái thay đổi nhận thức trong khoảng hai tiếng.

Trong khoảng thời gian ngắn mà tôi trải qua với người phụ nữ Colombia lạ lùng đó, tôi biết và hiểu điều gì đã xảy ra. Tất cả trở nên tuyệt đối rõ ràng. Thật ra, hai cụ Mama Kogi đã giải thích cho tôi mọi việc trong lúc tôi còn đang ở Colombia, trong cơ thể của một người phụ nữ này.

Họ nói: “Chúng tôi đi xuống núi đến một bộ lạc khác gần đó để gặp một người phụ nữ thuộc bộ lạc này, người có khả năng đặc biệt. Chúng tôi nhờ cô ấy giúp để tiếp cận được anh, và cô ấy đã đồng ý”.

Ema, tên người phụ nữ đó, nằm trên một cái giường trải cỏ dầy trong một túp lều rơm tròn. Tinh thần của bà ấy đã rời khỏi thể xác đi xuống núi, đến thung lũng nơi người phụ nữ Colombia đang sống trong một căn nhà gạch cũ. Ema nhập vào thân thể của người phụ nữ Colombia, tôi không rõ bà có được phép làm như thế không và đặt ý tưởng đi học chương trình của tôi ở Mexico vào đầu người phụ nữ này. Vì như thế, Ema có khả năng dạy tôi “ngôn ngữ không lời”.

Kinh ngạc nhất là người phụ nữ Colombia này không có tiền, không có hộ chiếu lẫn thị thị thực, không có giấy khai sinh hoặc bất kỳ giấy tờ tùy thân nào và cũng không có vé máy bay. Vậy mà, cô ấy có thể đi đến Mexico để tham dự khóa học của tôi. Ai đó đã mua cho cô ấy vé máy bay và trước khi tôi rời nước Mỹ để sang Mexico, hai thiên thần nhắc tôi cho cô ấy học miễn phí. Mặc dù vậy, bằng cách nào đấy, cô ấy đã đi qua được cửa khẩu hải quan mà không có giấy tờ tùy thân. Bằng cách nào đấy, cô ấy thực hiện được chuyến bay từ Colombia đến Mexico và chuyến bay về theo chiều ngược lại, mà không gặp phải rắc rối. Tôi đoán rằng cô ấy đã “tàng hình”.

Những gì tôi học được từ Ema với những âm thanh lạ lùng của cô ấy không chỉ giới hạn trong cách thức các Mama Kogi di chuyển tôi trong không gian, mà còn nhiều hơn thế. Nhờ khả năng mới của mình, tôi đã đi bộ trên mảnh đất của người Kogi, thăm quan thế giới thực của họ, trong một thân thể phụ nữ và xung quanh là các pháp sư Mama già. Họ đều biết rằng tôi ở trong thân thể phụ nữ này, lần lượt từng pháp sư lại gần, nhìn tận mặt tôi và phát ra âm thanh lạ.

Mỗi lần một âm thanh vang lên, tôi lập tức biến mất để rồi lại xuất hiện trong một thực tại mới mà ở đó họ dạy tôi nghe về lịch sử, văn hóa và đức tin của họ. Khi những trải nghiệm rất thực đó kết thúc, ngoài tất cả những điều trên, tôi còn biết rất rõ về người phụ nữ mà tôi đã “mượn” cơ thể, về chồng cô ấy và ba đứa con, cứ như họ là người thân của tôi. Trong suốt thời gian đó, bên cạnh tôi là hai Mama Kogi già và tôi biết về họ nhiều như thể chúng tôi là một gia đình.

Mamos Bernardo, một trong hai người trở thành người hướng dẫn tâm linh của tôi trong một vài tháng tiếp theo. Tôi cảm thấy như được sinh ra một lần nữa trong thế giới mới và khó tin, nơi tất cả các nguyên tắc cũ không còn hoạt động. Thế giới cũ quen thuộc của tôi trở nên giống như một giấc mơ trong khi, thế giới mới là hiện thực.

Buổi làm việc của tôi với Ema kết thúc bất ngờ như khi nó bắt đầu. Tôi trở lại thân thể của mình ở Mexico, tiếp tục giảng dạy khóa học, mà đối với tôi khi đó, không có gì chung với trải nghiệm vừa qua.

Chậm rãi qua vài tuần sau đó, tôi bắt đầu hiểu trải nghiệm mới này và bắt đầu tiếp nhận cách thức diệu kỳ mà các Mama Kogi đã dạy tôi. Tôi ngộ ra rằng những âm thanh đó không phát sinh ra từ tâm trí, thông qua suy nghĩ và ngôn từ, mà được tạo ra từ một không gian thiêng liêng bên trong trái tim. Những âm thanh này được gửi qua giấc mơ, cảm giác, tình cảm. (Hình ảnh được tạo ra trong cơ thể bởi cả tâm trí và trái tim, nhưng chỉ trái tim mới tạo ra các hình ảnh rất thực).

Không nghi ngờ gì, đây là một cách thức giao tiếp vượt qua mọi khả năng của tâm trí. Chính tôi, sau trải nghiệm “ngôn ngữ không lời”, không bao giờ còn như trước đây. Tôi cảm thấy vinh dự và hào hứng trước những khả năng của nó. Ngôn ngữ không lời là cách thức giao tiếp giữa mọi dạng sống, chứ không phải chỉ giữa con người. Các Mama Kogi khuyên tôi thử cách giao tiếp này với động vật để tự chứng nghiệm sự thật.

Hợp nhất với ngựa

Claudette có ba con ngựa. Chúng sống ở ngoài trời, trên cánh đồng. Một ngày sau khi trở về từ Mexico, tôi nắm tay vợ và kéo cô ấy đến chỗ chúng. Tôi đã kể cho cô ấy câu chuyện về Ema và cả hai chúng tôi đều muốn xem chuyện xảy ra với những con ngựa.

Chúng tôi ra đến cánh đồng. Những con ngựa đang đứng lười biếng cạnh bờ rào, mỗi con cách nhau khoảng 30m và không để ý gì đến nhau. Tôi chậm rãi đi bộ đến giữa cánh đồng trong khi Claudette chuẩn bị thức ăn cho chúng. Cả ba con ngựa như đang mơ màng dưới ánh nắng khô rát và nóng bỏng của Arizona.

Tôi lặng lẽ rời bỏ tâm trí và đi vào trái tim theo cách mà tôi đã được dạy và cơ thể của tôi phát ra một âm thanh chót vót. Tôi không phát ra âm thanh. Âm thanh tự phát ra và linh ảnh bên trong về một chú ngựa con cũng tự xuất hiện.

Đúng vào khoảng khắc đó, cả ba con ngựa quay đầu và nhìn vào tôi chằm chằm. Sau đó, như được ra lệnh, chúng vội vã đi về phía tôi. Khi gặp tôi, chúng thay nhau dụi mặt chúng vào mặt tôi. Thế là chỉ trong vài giây, tôi đã ở trong vòng vây của những con ngựa. Như theo một tín hiệu ẩn, chúng đồng thời cúi đầu, và tôi, không có sự lựa chọn nào khác, cũng cúi đầu.

Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, tôi trở thành một con ngựa. Chúng tôi trao đổi với nhau những âm thanh ngắn ngủi, xen kẽ với những tiếng hí nhỏ. Hình ảnh ngựa và đàn ngựa tràn ngập trong tôi, cùng với xúc cảm “tình dục” mà tôi đã được biết với Ema. Tôi không thể giải thích tường tận điều gì đã xảy ra khi đó, nhưng đó là những khoảng khắc không thể quên được trong cuộc đời tôi. Tôi tràn đầy hạnh phúc vì có thể trò chuyện được với những chú ngựa.

Và bỗng nhiên, tất cả kết thúc, nhanh như lúc bắt đầu. Nhưng tôi, giống như những chú ngựa kia, đã thay đổi mãi mãi. Từ lúc đó, mối quan hệ giữa chúng tôi không còn như giữa một con người và một con ngựa, chúng tôi là thành viên của một gia đình.Thật là một quà tặng tuyệt vời! Thời khắc đó tôi đã biết chắc chắn rằng trải nghiệm của tôi ở Mexico là thực.

Những ai đã đọc Kinh thánh, chắc còn nhớ câu chuyện về Babylon. Trước Babylon, cả thế giới nói một ngôn ngữ và con người có thể giao tiếp với con vật qua ngôn ngữ này. Sau Babylon, Đấng Sáng tạo đã chia cắt chúng ta bằng rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, ngôn ngữ khiến chúng ta rời xa nhau vì chúng ta không thể luôn hiểu nhau như trước. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ chưa bao giờ tìm thấy dấu tích của ngôn ngữ chung này ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Tại sao?

Tôi tin rằng, bởi vì, ngôn ngữ duy nhất này không phải là thứ ngôn từ dùng để nói và viết, mà đó là các âm thanh đi ra từ bên trong trái tim. Chỉ khi trái tim nhân loại một lần nữa mở ra, chúng ta sẽ nhớ lại ngôn ngữ này và sẽ tái kết nối với nhau - không chỉ giữa chúng ta, mà còn với động vật và với tất cả sự sống ở muôn nơi.

Mời một người khác vào không gian thiêng liêng

Khoảng hai tuần sau trải nghiệm của tôi với các chú ngựa của Claudette, tôi lại Bờ Đông nước Mỹ dạy khóa Mặt đất và Bầu trời. Những điều tôi vừa học được từ các Mama Kogi vẫn in đậm trong tâm trí. Người trợ lý cho khóa học đó lắng nghe rất chăm chú những điều tôi nói về khoảng không gian thiêng liêng trong trái tim, cuối cùng không kìm được, cô ấy yêu cầu: “Hãy chỉ cho tôi về nó!”

Đầu tiên tôi hoài nghi, bởi vì con người chúng ta có quá nhiều gánh nặng cảm xúc và ràng buộc lý trí, nên phần lớn đều rất sợ phải buông bỏ tâm trí. Nhưng cô ấy cứ năn nỉ ên tôi cuối cùng đồng ý thử. Mặc dù, thực sự, tôi không chờ đợi kết quả nào cả.

Chúng tôi khoanh chân, ngồi đối diện nhau và bắt đầu bài thiền đơn giản bằng cách theo dõi hơi thở vì nó giúp thư giãn nhanh hơn những phương pháp khác. Sau đó, theo cách các Mama Kogi đã hướng dẫn, linh hồn tôi rời bỏ không gian của tâm trí và chuyển vào trái tim. Và gần như lập tức, cơ thể của tôi phát ra âm thanh lạ và tâm ảnh bên trong xuất hiện.

Tôi thấy mình trên bờ sông Amazon, cách dòng nước xanh màu bùn vài mét và xa hơn bên trái là một cái cây nhiệt đới rất to. Một cành cây lớn vươn ngang mặt đất, ra tới khoảng 6m từ thân cây chính. Linh hồn tôi bay cách mặt đất khoảng 2m quan sát phía dưới một con sư tử đực đang đi rất nhanh và tự tin. Nó nhảy lên cái cành cây đó và sải bước tới cuối cành. Sau đó, con sư tử nhảy xuống đất và tiếp tục đi dọc theo dòng sông.

Vào khoảng khắc tiếp theo, tôi trở lại căn phòng, mà tôi đang ngồi cùng với người trợ lý. Chúng tôi cùng mở mắt một lúc. Tôi nhìn cô ấy, muốn biết cô ấy đã trải qua điều gì, nhưng không kỳ vọng gì. Trong sự ngạc nhiên của tôi, cô ấy đã mô tả lại điều tôi nhìn thấy đến cả những chi tiết nhỏ nhất. Tôi gần như không thể tin được điều đó. Vậy là đã thành công! Không cho tôi một giây nào để suy nghĩ về điều vừa xảy ra, cô ấy hào hứng đề nghị tôi làm lại. Điều này làm tôi nhớ lại cảm xúc của mình khi Ema lần đầu tạo ra những âm thanh cho tôi.

Chúng tôi lại nhắm mắt, sau vài giây, thân thể tôi lại một lần nữa phát ra tiếng động. Lập tức tôi lại lơ lửng trên trần phòng ngủ trong ngôi nhà của người phụ nữ Colombia, nhìn xuống thấy cô ấy đang ngủ trên giường. Lúc bấy giờ là buổi sáng sớm.

Linh hồn của Ema tách ra khỏi thể xác, bay lên gặp tôi trên trần nhà. Chúng tôi hợp thành một và bay xuyên tường ra bên ngoài. Chúng tôi bay lên rất cao trong không trung, nhìn xuống cánh rừng bên dưới và những dãy núi bao quanh.

Sau đó chúng tôi bay qua những ngọn cây hướng về phía ngọn núi. Chúng tôi bay nhanh chóng mặt, ở độ cao khoảng 30m so với ngọn cây, lướt theo một sườn núi rồi hạ xuống một thung lũng sâu, nơi có một cái làng với những túp lều rơm tròn.

Chúng tôi bay thẳng tới một cái lều, xuyên qua những bức tường tới giường cỏ nơi thân thể trần trụi của Ema đang nằm. (Những người bộ lạc sống trên ngọn núi này và người Kogi thường ngủ trên một cái võng, nhưng họ sợ đặt thân thể Ema lâu trên võng trong tình trạng bất tỉnh nên đã chuyển nó xuống đệm cỏ).

Chúng tôi nhập vào cơ thể của cô ấy và Ema đứng dậy giữa các thành viên trong gia đình mình đang đứng vây xung quanh. Ba đứa con chạy tới, vui mừng gọi tên mẹ và ôm lấy người mẹ vừa trở về. Đứa nhỏ nhất, mới hơn một tuổi, chúi vào ngực trái của mẹ và bắt đầu bú. Đứng ở bên cạnh còn có chồng của Ema và hai cụ Mama Kogi. Tôi nhìn họ và họ cũng biết về sự hiện diện tôi. Và rồi mọi thứ kết thúc.

Tôi trở lại trong căn phòng xuất hiện trên Bờ đông nước Mỹ, cùng với người trợ lý. Một lần nữa, chúng tôi lại cùng mở mắt ra. Tôi chưa kịp nói lời nào, cô ấy đã mô tả rất chi tiết sự việc xảy ra trừ một điểm duy nhất, mà đến bây giờ tôi vẫn chưa giải thích được. Cô ấy nhìn thấy tinh thần của Ema bay ra từ cơ thể của người phụ nữ Colombia dưới dạng một con bọ. Ai mà biết được, có thể, điều này có liên quan tới một hình ảnh nào đó trong hệ tư tưởng của cô ấy. Ngoài điểm đó, tất cả những điều còn lại đều chính xác như những gì tôi đã trải qua.

Nếu nói là tôi rất phấn khởi, thì thậm chí còn rất xa để mô tả cảm xúc của tôi. Bây giờ, không còn một chút nghi ngờ gì nữa về sự tồn tại của một khoảng không gian thiêng liêng trong trái tim con người. Trải nghiệm đó chứa đựng trong nó tiềm năng to lớn của con người và có thể làm thay đổi hướng đi của lịch sử loài người khỏi nạn diệt vong. Và điều mà các Mama Kogi muốn tôi làm là dạy hay truyền lại khả năng này cho người khác. Để làm gì? Là những người gìn giữ sự cân bằng trên trái đất, các Mẹ Kogi tin rằng, nếu chúng ta nhớ lại được, chúng ta thực sự là ai và điều gì nằm trong trái tim của chúng ta, thì chúng ta không thể giết chết trái đất bằng cách sử dụng kỹ thuật ngu ngốc phi nhận thức của mình. Tôi tin rằng họ đúng.

***

Trong suốt hai tuần tiếp theo, các Mama Kogi đều xuất hiện trong các giấc ngủ của tôi, mỗi đêm và suốt đêm. Họ tiếp tục dạy tôi và hé lộ các khía cạnh của bản thân mà theo họ tôi nên biết. Những giấc mơ đó cho thấy một cách hoàn toàn rõ ràng rằng họ muốn tôi truyền đạt lại thông tin này cho nền văn hóa kỹ trị của thế giới.

Cuối cùng, tôi đã đến tận nơi gặp người Kogi. Thực sự là trong lần gặp này, tôi không biết thêm điều gì mới so với những cái họ đã dạy tôi. Tuy nhiên, người Kogi cho tôi một loạt các lời khuyên. Một số trong số chúng, tôi đã sử dụng để truyền đạt lại những điều tôi đã được học. Một số khác tôi không thể dùng được. Ví dụ, các Mama Kogi nói rằng, nếu học viên của tôi đứng liên tục chín ngày đêm trong bóng tối không ăn và không ngủ, họ có thể đi vào không gian thiêng liêng của trái tim. Điều này có thể đúng, nhưng cách đó không thực hiện được trong thế giới hiện đại. Từ kinh nghiệm của cá nhân, trong vai trò người hướng dẫn, tôi dần dần tìm ra hai phương pháp có thể cho kết quả tương tự, tôi sẽ chia sẻ với các bạn ở cuối cuốn sách này.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh