Sống Trong Trái Tim: Chương 1. Bắt Đầu Với Tâm Trí

SỐNG TRONG TRÁI TIM: CHƯƠNG 1. BẮT ĐẦU VỚI TÂM TRÍ

Làm sạch không khí nhờ các phương tiện kỹ thuật

  • Làm sạch không khí nhờ thân thể ánh sáng của con người
  • Gặp gỡ với thế giới bên trong ở trái tim

Hầu như tình cờ, câu chuyện đã bắt đầu ngẫu nhiên trong cuộc sống của tôi. Khi đó, tôi chưa thiền Mer-Ka-Ba, một hình thức thiền định đi vào thế giới cao hơn thông qua hình học thần thánh. Chỉ đơn giản, vào một thời điểm của cuộc sống hàng ngày, tôi quyết định giúp Trái đất khôi phục lại môi trường bằng những phương tiện kỹ thuật do tâm trí tạo ra. Tôi cho rằng, trách nhiệm làm sạch hành tinh này là của tất cả mọi người. Chính tôi phải bảo vệ môi trường nếu như tôi thường xuyên nói về đề tài này trước công

chúng. Vì vậy, tôi mở lòng cho mọi cơ hội đưa đến để cải thiện tình trạng

môi trường trên đất Mẹ của chúng ta.

Nhưng chắc bạn cũng biết rằng, vấn đề ô nhiễm môi trường không phải là lý do của câu chuyện này. Trong thời gian thử nghiệm máy môi trường R-2 đã xảy ra một điều thay đổi toàn bộ cuộc đời tôi và tâm hồn tôi đã mở ra một cách nhận thức thực tại hoàn toàn khác.

Khi đó, tôi không biết rằng các thí nghiệm kỹ thuật này sẽ đưa tôi vượt qua biên giới của trí tuệ, đến những góc chưa được ý thức và đi sâu vào một vị trí bí mật ở trong trái tim.

Làm sạch không khí bằng các phương tiện kỹ thuật

Tất cả bắt đầu vào tháng 05/1996, khi một người bạn lâu năm của tôi gọi điện và đề nghị rằng liệu tôi có muốn tham gia vào một dự án về môi trường nhằm làm sạch không khí bị ô nhiễm ở thành phố Denver thuộc Bang Colorado hay không? Hiện tôi không tiện nói tên người bạn đó của mình. Hãy coi rằng anh ấy tên là Jon. Đây là một nhà khoa học không được công nhận chính thức, anh nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của cuộc sống và của thế giới vật chất tại một phòng thí nghiệm gia đình nhỏ nhưng rất tinh vi.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Tôi nghi ngờ rằng chỉ số IQ của anh ấy còn có thể đo được khi mà anh ấy rõ ràng là một siêu thiên tài. Jon sáng chế ra phương pháp nhận thức thực tại nhờ bức xạ của vi sóng. Điều này đưa đến cho anh một lợi thế rất lớn trong việc trả lời các câu hỏi về thế giới. Thậm chí, chính phủ Mỹ cũng biết về công việc của nhà khoa học này, nhưng đến tận bây giờ vẫn không thể sao chép lại các sáng chế của anh.

Jon kể rằng, anh cùng với các đồng nghiệp của mình, một trong số đó là tác giả của thiết bị xoắn ốc - Slim Spurling, đã có một phát minh có thể giải quyết được nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường trên hành tinh của chúng ta. Nhà nghiên cứu muốn tôi làm quen với sáng chế đó. Anh nói rằng họ đã thành công trong việc làm sạch không khí ở Denver và hiện giờ ở đó rất dễ thở. Và thế là, họ mời tôi tới để nhìn thấy tận mắt thiết bị này.

Điều Jon nói rất khó tin, bởi vì chính tôi đã từng sống ở Boulder, bang Colorado, cách Denver vài cây số, nơi có chỉ số chất lượng không khí tồi

nhất nước Mỹ vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước. Thậm chí, tại Los Angeles, không khí còn sạch hơn. Đây là một trong những lý do tôi đã chuyển đi khỏi Boulder. Thành thực mà nói, tôi nghĩ rằng, Jon đã phóng đại, nhưng tôi biết với trí thông minh và tài năng của anh, mọi việc đều có thể. Để hiểu rõ sự việc, hơn nữa cũng đang cần thay đổi không khí, nên lời đề nghị này là rất hấp dẫn với tôi.

Vì vậy, tôi quyết định giữ thái độ không phán xét, cũng không chờ đợi gì cả và lên đường. Thậm chí, trong trường hợp, điều mà Jon nói không đúng với thực tế, thì chuyến đi này sẽ đưa tôi tới gần những rặng núi Rockies phủ đầy tuyết trắng, điều luôn đem lại cho tôi sự sảng khoái.

***

Một tuần sau, ngay khi bước xuống máy bay, tôi đã cảm nhận được một bầu không khí trong lành của Denver, không khí giống như thế này tôi rất hiếm khi được hưởng trong cuộc đời mình. Nó giống như không có không khí. Tôi có thể thấy những cái cây trên những rặng núi ở khoảng cách rất xa, hơn ba mươi cây số.

Tôi đứng như một du khách lạc đường trong một vùng đất xa lạ, ngẩn người trước sự tinh khôi của không khí mà tôi chưa bao giờ được thấy trong suốt năm năm tôi sống ở đây. Nếu nói rằng tôi bắt đầu chú tâm đến thiết bị của Jon là quá nhẹ; sự quan tâm của tôi đã được thổi bùng. Jon thực sự có thể đã làm điều này ư?

Một chiếc taxi sân bay đỗ lại gần tôi, người lái xe toát lên vẻ ôn hòa, thư thái. Anh ta ra hiệu cho tôi ngồi vào ghế phía trước như thể tôi là một người bạn lâu năm và trong vài phút chúng tôi đã đến ngôi nhà mà cũng là phòng thí nghiệm của Slim Spurling, một nơi tôi chưa từng đến nhưng đã nghe nhiều câu chuyện thú vị về nó.

Tôi nhớ khi nhìn vào đôi mắt người lái xe, tôi thấy dường như anh ta hoàn toàn được giải phóng khỏi sự căng thẳng, một điều bất thường với giới lái xe taxi. Tôi hỏi anh làm sao thích công việc của mình đến vậy. Nhìn vào con đường trước mặt, anh ấy đáp rằng anh yêu điều mình làm. Với anh, mọi người như những cuốn sách kể cho anh những câu chuyện về những trải nghiệm của họ khi họ đi du lịch vòng quanh thế giới.

Lúc đó, anh hỏi tôi tại sao tôi đến Denver. Tôi bảo anh, tôi đến đây để tìm câu trả lời cho vấn đề ô nhiễm của thế giới. Anh nhìn tôi, ngây thơ như một đứa trẻ, và nói: "Giờ tất cả đã qua rồi. Nhìn xem, không có ô nhiễm không khí". Tôi bảo anh, tôi có thể thấy không khí rất trong lành. "Hơn cả thế", - anh nói. "Tất cả mọi người tôi biết đều cảm thấy rất thoải mái! Anh biết chuyện gì xảy ra không?".

Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi của anh và ngay sau đấy chúng tôi tới một chuỗi tòa nhà chung cư hai tầng đã cũ trên con đường dài cuối cùng sẽ kết thúc ở Trường Colorado School of Mines. Ở đây tôi đã gặp Slim Spurling, một trong những nhà nghiên cứu đang tập hợp kết quả thực nghiệm của một thiết bị làm giảm ô nhiễm, được gọi là R-2.

Đây là một phát minh kỳ diệu cho phép phát hiện một đám mây mưa qua sóng hình của nó khi ánh chớp phát ra từ đám mây này vừa mới lóe lên. Các sóng hình đó được phát ra trong một khu vực rộng hơn 55 cây số, để phá vỡ tinh thể hydrocacbon thành các phân tử oxygen và hơi nước vô hại. Nó có thật chứ? Nó thật như việc bạn đang hít thở không khí trên phố.

Tôi gõ cửa và nghe Slim nói vọng ra mời tôi vào. Căn nhà anh rõ ràng là một phòng thí nghiệm và không phải là nơi để ăn ngủ. Hóa ra chỗ sinh hoạt của anh là ở tầng trên, tách biệt với thế giới nghiên cứu ở dưới.

Trên sàn có những cuộn dây đồng kỳ lạ, đa dạng kích cỡ la liệt khắp sàn và những thứ khác thì chỉ có Chúa và Slim mới biết chúng là gì. Người đàn ông này là sự pha trộn giữa hình ảnh của phù thủy Merlin với bộ râu trắng dài và hình ảnh một chàng cao bồi già đang tìm con bò bị lạc để lùa về nhà, những "cuộn dây cũ kỹ" này thực sự đã làm gì đó để thanh lọc sự ô nhiễm không khí ở Denver.

Trung tâm của R-2, hai trong số các cuộn dây của Slim Spurling (ghi): Vật Điều hòa (bên trái) và Acu-Vac (*Bộ Khởi động - Hút bụi) (bên phải)

Jon không có ở đây nhưng Slim, nhà đồng sáng chế và hai nhà nghiên cứu khác đang thử nghiệm thiết bị này. Một lúc sau hai nhà nghiên cứu này đi khỏi phòng thí nghiệm, chỉ còn tôi với Slim. Nhờ giao tiếp với anh, tôi hiểu ra người đàn ông này cũng là một thiên tài như Jon. Tôi ở lại với Slim và các đồng nghiệp của anh một vài ngày để học hỏi những thứ mà họ cảm thấy có thể chia sẻ được với tôi.

Đây là cách R-2 hoạt động - thực ra có rất nhiều thông tin về nó nên những dòng dưới đây chỉ là ý chính. Sóng hình của một đám mây mưa phát ra tại thời điểm tia chớp sắp được phóng ra, được sao chép lại bằng một cái máy đặc biệt (không phải R-2). Sóng hình này được ghi tiếp vào một con chíp máy tính trong R-2. Hệ thống loa của R-2 gửi nó vào trong khí quyển qua một cuộn dây đã gắn cố định, gọi là bộ phận điều hòa. Sóng hình sau đó được khuếch đại và mở rộng thành hình một trường hình xuyến, trường này tác động đến sóng trọng trường và thanh tẩy ô nhiễm từ xa. R-2 có bốn bàn xoay gắn vào cuối các thanh kim loại, tạo thành một khối tứ diện. Các bàn xoay có thể được kích hoạt nhờ tần số sóng của trường hình xuyến.

Cả Jon và Slim đều coi các trường năng lượng hình xuyến như một không gian sống (sau này tôi đã chứng kiến sự tương tác của nó với tự nhiên). Tôi cố gắng mở lòng ra trước những điều mà cho tới lúc đó tôi chưa hề biết.

Đầu tiên tôi học cách bắt tín hiệu của một cái R-2 bằng cảm giác tại con mắt thứ ba khi tôi chỉnh bàn xoay theo từng đơn vị của bảng chỉ số. Việc này rất dễ dàng với người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ngoại cảm, tôi làm việc này một cách hoàn toàn tự nhiên. (Về sau, tôi nhận ra chỉ có một vài người có thể làm việc đó chính xác, nhưng người nhạy cảm nào cũng có thể đào tạo để làm được việc đó).

Tôi tiếp tục luyện tập cho đến khi Slim và Jon cảm thấy tôi đã sẵn sàng cho phần kiểm tra kỹ năng. Tôi đã bắt sóng R-2 trong tự nhiên và đưa một khu vực nhỏ Denver bị "lạc nhịp" trở lại cân bằng. (Nếu một R-2 đặt trong một khu vực bị lạc nhịp, khu vực đó sẽ nhanh chóng trở lại tình trạng ô nhiễm ban đầu, thường là trong hai tuần lễ). Lúc đó, tôi không thể tin rằng Denver còn có các vùng khí bị nhiễm bẩn, nhưng cả hai nhà nghiên cứu đều khẳng định là vẫn còn.

Chúng tôi lái xe khoảng ba mươi cây số tới vùng đông nam của Denver, một vùng tôi không quen lắm và sau khi đã ở rìa ngoài của thành phố, chúng tôi dừng xe bên xa lộ; và bắt đầu đi bộ dọc theo sườn dốc của ngọn đồi để lên đỉnh. Phía trên đỉnh, quang cảnh như là một khu rừng nhỏ.

Tôi không bao giờ quên quang cảnh mà tôi nhìn thấy khi đứng trên đỉnh, nhìn xuống thung lũng rộng mênh mông bên sườn kia quả đồi. Toàn bộ thung lũng bị che phủ bởi một đám mây ô nhiễm màu đỏ nâu rộng tới vài cây số. Dưới một cây lá dương nhỏ, khuất tầm nhìn khỏi bất cứ ai tình cờ đi qua, là một chiếc R-2 đang hát giai điệu của một đám mây giông. Vấn đề là nó đã lạc nhịp.

Jon và Slim bảo tôi ngồi xuống trước máy R-2, và họ muốn xem tôi đã học được bài học cần thiết chưa. Đầy ắp thích thú và ngạc nhiên như đứa trẻ, tôi ngồi khoanh chân trước bảng chỉ số, nhắm mắt, thiền để bắt sóng.

Khi tôi vừa khởi động bàn xoay, Jon dừng tôi lại và bảo: "Mở mắt và quan sát đám mây". Đây không phải cách tôi được học, nhưng tôi vẫn nghe theo, nhìn đám mây và cố gắng điều chỉnh bàn xoay một lần nữa. Jon lại ngăn tôi và nói: "Hãy lắng nghe cả tiếng chim".

"Cái gì cơ?". Tôi quay lại hỏi. Chẳng ai đề cập tới chim chóc trong suốt thời gian dạy tôi.

Anh ta lặp lại, "Cứ lắng nghe tiếng chim. Anh sẽ hiểu thôi".

Tôi chẳng hiểu anh ta đang nói nữa, nhưng cứ làm theo. Khi tôi khởi động bàn xoay lần đầu, tôi cảm thấy có sự thay đổi trong không gian bán kính khoảng vài cây số quanh đó, nhưng không có gì hữu hình xảy ra. Khi tôi chỉnh tới bàn xoay thứ tư, bỗng dưng, có hai thứ đồng thời xảy ra - và cả hai đều khiến tôi choáng váng.

Ngay lập tức, đám mây ô nhiễm đỏ nâu biến mất, để lộ ra một không gian trong veo. Cứ như một phép màu. Vào ngay khoảnh khắc đám mây biến mất, cả trăm con chim bắt đầu rào rào cất tiếng hót vang quanh tôi. Tôi thậm chí đã không biết có chim ở đó. Hai sự kiện đồng thời diễn ra có một tác động kỳ lạ tới tâm hồn tôi. Tôi đã chứng kiến và cảm nhận được sức mạnh của R-2 và trong khoảnh khắc ấy tôi biết chắc chắn rằng phát minh này là có thật và đơn giản là tôi chỉ cần học thêm về nó qua thực nghiệm.

Trong thời gian này, đặc biệt trong năm 1995 và đầu năm 1996, bầu không khí của Denver trở nên cực kỳ trong lành khi R-2 chạy liên tục, nhưng Cục Bảo vệ Môi trường (EPA) của thành phố đã giành hết công trạng cho công việc phi thường này. Cục nói rằng các biện pháp được triển khai đã giúp cho bầu không khí của Denver được trong sạch. Đã chứng kiến tận mắt R-2 làm sạch tức thì những vùng rộng lớn của Denver, tôi biết EPA đã tranh công cho một việc mà cơ quan này không làm.

Tiến xa hơn, Jon và Slim đã cho máy R-2 chạy thử ở một phòng thí nghiệm độc lập tại Fort Collins, Colorado và chứng minh đầy thuyết phục rằng R-2 đang thực hiện chính xác những gì các nhà nghiên cứu khẳng định. Chiếc máy được cho chạy trong một khoảng thời gian và sau đó tắt đi. Số liệu khoa học cho thấy mức ô nhiễm đã giảm xuống khi R-2 đang chạy và sau đấy tăng lên khi nó ngừng hoạt động. Họ cứ làm đi làm lại như vậy trong một thời gian, như tôi nhớ thì khoảng ba tháng. Ngoài ra, Lực lượng Không quân Mỹ ở Căn cứ Không quân Kirkland đã theo dõi thí nghiệm này cũng như thí nghiệm mà tôi bắt đầu tiến hành ở Phoenix (tôi sẽ nói thêm về thí nghiệm ở Phoenix ở ngay phần sau). Lực lượng không quân hỏi chúng tôi có muốn đệ trình những thiết bị này để thẩm định khoa học không. Chúng tôi đồng ý và những thử nghiệm đã chứng minh một cách thuyết phục rằng R-2 thực sự đã làm sạch không khí ô nhiễm.

Khi trở về phòng thí nghiệm, Jon và Slim đưa cho tôi mang về nhà một chiếc R-2 để chạy thử tại Arizona. Phải thú nhận là, tôi cảm thấy vui như một đứa trẻ vừa được tặng một món đồ chơi mong đợi từ lâu. Tôi kiên nhẫn chờ tới khi về đến nhà và bắt đầu một mình khám phá cỗ máy khó tin này nhiều hơn nữa.

***

Tôi về tới nhà. Tóm tắt tin chính của báo Arizona Republic ngày 30 tháng 5 năm 1996 đã mô tả bầu không khí ô nhiễm kinh khủng đang là vấn đề nổi cộm ở Phoenix. Thống đốc bang Arizona, Fife Symington, nói rằng mức ô nhiễm ở Phoenix đã quá tệ đến nỗi xếp loại của thành phố đang chuẩn bị chuyển sang mức "trầm trọng". Các cảnh báo được ban hành cứ vài ngày một lần và tình hình thì vẫn cứ tiếp tục xấu đi hàng ngày.

Để đối phó, Thống đốc Symington đã thành lập "Lực lượng đặc nhiệm các chiến lược Ozone" (Ozone Strategies Task Force), được điều hành bởi luật sư Roger Ferland. Liên quan đến việc tìm ra một giải pháp cho vấn đề ô nhiễm, ông Ferland đã nói trong một bài viết của báo Arizona Republic rằng, "Tôi sẵn sàng cho bất kỳ điều gì. Không giải pháp nào mà chúng tôi không cân nhắc, dù nó triệt để hay lập dị, khó khăn hay tốn kém cỡ nào. Chúng tôi sẽ xem xét tất cả mọi thứ".

Ông Ferland nói rằng họ nhất thiết phải làm sạch Phoenix; ô nhiễm không khí sẽ phá hủy ngành du lịch và ảnh hướng tới hầu hết các ngành khác, bên cạnh các vấn đề về sức khỏe mà nó sẽ gây ra.

Và vì thế tôi viết một bức thư gửi tới ông Ferland đề nghị hỗ trợ việc bố trí máy R-2 ở Phoenix. Vì chúng tôi có các bằng chứng khoa học chứng tỏ chiếc máy hoạt động hiệu quả, từ cả phòng thí nghiệm độc lập lẫn từ Không quân Mỹ, và vì chúng tôi cũng không yêu cầu được trợ giúp tài chính, nên tôi tưởng rằng họ sẽ quan tâm. Rõ ngốc, tôi đã sai! Trong bức thư, tôi chỉ yêu cầu thành phố Phoenix cho chúng tôi một cơ hội để thể hiện chúng tôi có thể làm được gì. Chúng tôi sẽ chịu tất cả chi phí. Tất cả những gì họ phải làm chỉ là thừa nhận sự có mặt của chúng tôi và theo dõi những gì chúng tôi đang làm.

Tôi nhận một cuộc gọi từ một người đàn ông tên Joe Gibbs. Ông ta nói là họ không hứng thú với máy R-2 của chúng tôi và họ sẽ không giúp đỡ dù thế nào đi nữa. Bạn phải hiểu rằng tôi đã bối rối như thế nào trước phản hồi đó. Đó cũng là lúc tôi bắt đầu nhận ra rằng các bài báo chỉ để phô diễn và làm chính trị và rằng họ chẳng có ý định thực sự nào làm sạch bầu không khí ô nhiễm ở Phoenix. Họ làm tôi thất vọng mọi mặt.

May mắn thay, không ai có thể ngăn tôi dừng việc nghiên cứu này, bởi vì máy R-2 chỉ chạy bằng một cục pin chíín vôn và chạy bằng dòng điện milivôn, trong luật liên bang nói rằng bất cứ cái gì sử dụng ít hơn một vôn thì không thuộc diện kiểm soát.

Vì vậy, ngày 4 tháng 6 năm 1996, tôi tự khởi động máy R-2 lần đầu ở Cave Creek, ở rìa phía bắc Scottsdale. Ngày đó không khí quả là bẩn và khô nên cực kỳ khó thở. Ở đây đã không mưa hàng tháng trời, thậm chí ngay một số cây xương rồng cũng sắp chết. Trong ba ngày đầu tiên, không có gì xảy ra. Sau đấy, vào ngày thứ tư, một đám mây mưa màu đen nhỏ xuất hiện trên nhà của tôi. Trên toàn phía nam Arizona không có một đám mây nào, ngoại trừ đám mây phía trên nhà của tôi và trên chiếc máy R-2 nhỏ. Sau đó đám mây bắt đầu phình to ra.

Đến ngày thứ mười, đám mây nhỏ ban đầu đã mở rộng đường kính tới khoảng hai tư cây số và lần đầu tiên trong suốt một thời gian dài, trời đã đổ mưa và có cả sét. Trời ơi, có sét ! Cứ như cả đời tôi mới chỉ thấy sét có một hai lần. Cơn bão kéo dài trong vài giờ mới tan, với những tia chớp nghì ngoằng cả bầu trời. Không khí có cái mùi đặc trưng của ozone. Bầu trời từ từ mở ra để trút xuống một trận mưa. Từ khoảnh khắc đó, hầu như cả ngày trời cứ liên tục mưa, làm sạch bầu trời ô nhiễm và rót đầy nước mát lành vào các con sông và ao hồ.

Tới ngày 1 tháng 9, 1996, trường sóng hình tạo bởi R-2 đã được thiết lập, và từ ngày đó trở đi không còn một cảnh báo ô nhiễm không khí nào cho đến khi Không quân Mỹ yêu cầu chúng tôi tắt R-2 để xem điều gì sẽ xảy ra.

Chúng tôi tắt máy vào ngày 12 tháng 5 năm 1998 và ngay cuối tháng đó mức ô nhiễm không khí đã trở lại như ban đầu, thành phố lại có một cảnh báo đầu tiên kể từ năm 1996. Trong thời gian diễn ra thử nghiệm này (thực tế, chúng tôi đã đặt một máy R-2 thứ hai ở chính thành phố Phoenix vào tháng 3 năm 1997 và đó là khi nó bắt đầu cho ra các kết quả), chỉ số hydrocarbon ở Phoenix hầu như luôn ở mức một con số. Thỉnh thoảng, ở giữa trung tâm thành phố Phoenix, chỉ số hydrocarbon bằng không. Hoàn toàn không có gì - không một chút ô nhiễm hydrocarbon. Không may, R-2 không ngăn được nitrate, chất gây ra ô nhiễm ozone, nhưng nó thực sự hữu ích với hydrocarbon. Đó thực sự là một kỷ lục.

Đến cuối cuộc thử nghiệm, tôi biết chắc chắn rằng việc chạy R-2 đã thành công nhưng Không quân Mỹ, cơ quan đang theo dõi những hoạt động của tôi, can thiệp và yêu cầu tôi tắt máy. Họ muốn thấy điều gì sẽ xảy ra, cũng như báo cho tôi biết rằng EPA của Mỹ sẽ không bao giờ cho phép việc tôi đang làm; họ gợi ý tôi nên đi ra ngoài nước Mỹ. Và vì vậy, với lời chúc của Không quân Mỹ, tôi bắt đầu thử nghiệm R-2 tại nước ngoài.

Từ tháng 6 năm 1996 đến tháng 5 năm 1998 tôi đã thực hiện công việc với R-2 và thu được những kết quả kinh ngạc, mà chẳng có bất kỳ điều gì được thành phố Phoenix ghi nhận.

Cuối cùng, tôi gửi một bức thư khác tới Thành phố Phoenix:

7 tháng Năm, 1989,

Thành phố của Phoenix

Gửi : Thị trưởng Skip Rimsza 200W. Washington

Phoenix, Arizona 85003

Thân gửi Thị trưởng Rimsza:

Trong tháng 5 năm 1996, có một bài báo của Arizona Republic mô tả tình trạng ô nhiễm không khí tệ hại ở Phoenix và ảnh hưởng nguy hại của nó tới tương lai của Phoenix. Bài viết này nói Thống đốc Symington đã thành lập "Lực lượng Đặc nhiệm Các Chiến lược Ozone" điều hành bởi luật sư Roger Ferland. Bài báo được gửi kèm thư. Liên quan đến việc tìm ra một giải pháp cho vấn đề ô nhiễm, ông Ferland đã nói: "Tôi sẵn sàng cho bất kỳ điều gì. Không giải pháp nào mà chúng tôi không cân nhắc, dù nó triệt để hay lập dị, khó khăn hay tốn kém cỡ nào. Chúng tôi sẽ xem xét tất cả mọi thứ".

Tại thời điểm đó tôi đã nói chuyện với ông Joe Gibbs, người nằm trong Lực Lượng Nhiệm Vụ Chiếc lược Ozone về hệ thống ô nhiễm không khí mà chúng tôi đã sử dụng ở Denver, Colorado trong năm 1995. Như đã chỉ ra rằng, trong suốt thời gian chúng tôi sử dụng hệ thống của mình, Denver đã có một năm trong lành nhất từng được ghi nhận.

Ông Gibbs bảo chúng tôi, ông ta không hứng thú với hệ thống này, nhưng đó là bởi vì nó đã sử dụng ít hơn một watt năng lượng nên không có luật nào ngăn chúng tôi thực hiện một thử nghiệm mà chúng tôi muốn. Chúng tôi bảo ông Gibbs rằng chúng tôi muốn thực hiện thử nghiệm này hoàn toàn với chi phí của chúng tôi. Ông ấy vẫn nói không. Chúng tôi đề nghị ông tối thiểu theo dõi những gì chúng tôi làm và ông ta vẫn từ chối. Tôi cảm thấy ông ta thực sự không có hảo ý giúp đỡ nào. Tôi thấy thái độ của ông Gibbs khác xa với thái độ mà ông Ferland đã thể hiện trong bài báo đề cập ở trên. Vài tháng sau, chúng tôi cố gắng gửi ông thử nghiệm khoa học độc lập của phòng thí nghiệm tại Fort Collins, Colorado, để chứng minh thiết bị của chúng tôi hoạt động, ông ấy lại quá bận bịu. Thậm chí khi Không quân, cơ quan đã từng làm việc với chúng tôi, gọi cho ông Gibbs, ông vẫn chẳng quan tâm.

Ngày mùng 4 tháng 6, 1996 chúng tôi thiết lập một hệ thống tối giản tại Cave Creek có phạm vi khoảng hơn năm mươi cây số. Phải mất ba ngày để khởi động hệ thống và sau ba tháng nó mới chạy ổn định được. Và nó chạy trơn tru vào ngày 1 tháng 9, 1996. Một thành phố như Phoenix nên có ít nhất mười thiết bị này, nhưng chúng tôi không đủ sức làm như vậy. Chạy một chiếc máy như sở hữu một chiếc ô tô mới và đẹp chỉ với hai mươi lăm sức ngựa, nhưng như vậy tốt hơn là không có gì.

Trước mùng 1 tháng 9, 1996, Phoenix đã có số ngày báo động cao bất thường và sắp rơi xuống mức xếp hạng "Nghiêm trọng" của EPA. Nhưng sau mùng 1 tháng 9, 1996, tôi tin chúng tôi đã không có một ngày báo động nào. Và ô nhiễm đã giảm xuống một cách đều đặn. Vào tháng 3 năm 1997, một máy khác đã được lắp đặt gần sân bay. Nhờ đó, hệ thống mạnh hơn và tác động được sâu hơn tới Phoenix

Căn cứ Không quân Kirkland ở New Mexico đã quan tâm với những điều chúng tôi đang làm một thời gian. Họ đã thử nghiệm một số thiết bị của chúng tôi và nếu bạn quan tâm tới ý kiến của họ, bạn có thể gọi Lt.Col.Pam Burr ở 505 --/--

Lý do chúng tôi viết bức thư này là để báo cho các ngài biết chúng tôi đang tháo dỡ hệ thống này vào mùng 1, 2 tháng 5 năm 1998. Chúng tôi đã để cho hệ thống ngừng lại từ ba tuần nay. Trong vòng chín mươi đến một trăm hai mươi ngày hoặc tương đương, ô nhiễm không khí có thể trở lại mức trước thời điểm tháng 6 năm 1996. Theo đánh giá của chúng tôi về sự phản hồi của Thành phố Phoenix với công trình khoa học này từ trước tới nay, chúng tôi không kỳ vọng sẽ có sự liên lạc. Tuy nhiên, nếu các ngài thấy rằng có lẽ chúng tôi có thể giúp các ngài giữ sạch thành phố khỏi ô nhiễm, hãy gọi cho chúng tôi.

Quan tâm đến Trái đất, Dru Melchizedek Tổng Giám đốc

cc: Lt.Col Pam Burr Arizona Republic QED, Research, llc Gov. Jane Hull

***

Trong thời gian thử nghiệm, tôi dần hiểu được điều đã thực sự xảy ra cũng như hiểu cách nhận thức con người tương tác với trường năng lượng của R-2. Tôi khám phá ra rằng R-2 được tạo ra theo hình ảnh của cơ thể ánh sáng của con người, hay còn gọi là Mer-Ka-Ba. Cho nên, một người biết thiền Mer-Ka-Ba và cũng biết về rung động của "đám mây mưa" có thể phối hợp hai cấu phần này và sao y lại hoạt động của R-2 chỉ bằng tâm thức mà không cần sự giúp đỡ của một chiếc máy.

Tôi nghĩ về điều này trong nhiều giờ. Và một ngày tôi đang giảng dạy ở Úc về Mer-Ka-Ba thì một trong các học viên nói, "Nếu R-2 có thể thay đổi không khí của một khu vực, thì tại sao một người biết Mer-Ka-Ba không thể tự làm điều đó? Tôi thực sự suy nghĩ…

Làm sạch không khí nhờ thân thể ánh sáng

Hạn hán đang hoành hành dữ dội vùng bờ biển đông bắc Úc. Hình như là vào năm 1997 hay 1998, cháy rừng khắp nơi, không một khu vực nào được an toàn. Không khí trĩu nặng và mịt mờ trong khói bụi. Không khí khô rát đến mức không chịu được.

Trước sự chứng kiến của ba người cùng với người học viên đã gợi ý tôi về việc sử dụng Mer-Ka-ba để bảo vệ môi trường, tôi bắt đầu thiền Mer- Ka-Ba và truyền sóng hình mây mưa từ trường Mer-Ka-Ba vào bầu khí quyển xung quanh trong bán kính khoảng vài cây số.

Chẳng có gì xảy ra vào buổi chiều hôm đó, nhưng sáng hôm sau, tôi bị đánh thức bởi tiếng mưa đập vào mái tôn của căn phòng. Mây xám phủ đầy bầu trời. Nhảy ra khỏi giường, tôi chạy đến bên cửa sổ để thấy mưa như thác đổ trút xuống căn nhà nhỏ của mình. Tim tôi nhảy múa như một đứa bé.

Tôi biết là đã thành công, nhưng mới chỉ có một lần và một lần thì hoàn toàn có thể chỉ là sự trùng hợp. Mưa không ngớt chút nào suốt ba ngày và vẫn tiếp tục khi tôi quay trở lại Mỹ. Từ nhà, tôi nhận được điện thoại của một người bạn tại Úc nói rằng hai tuần sau mưa vẫn còn nặng hạt. Tất cả các đám cháy rừng đều đã tắt và chính phủ thông báo hạn hán đã kết thúc.

Cảm hứng dâng trào. Có thật là một người bình thường có thể thay đổi thời tiết thông qua thiền định? Vài tháng sau, khi tôi kể chuyện này cho một nhóm người người đang học về Mer-Ka-Ba tại thành phố Mexico, thì một người bảo tôi: “Nếu anh đã làm việc này ở Úc, anh sẽ làm tương tự ở Mexico chứ? Không khí của chúng tôi ô nhiễm đến mức khó thở”.

Tôi đã đi khắp nơi trên thế giới, nhưng thành thật mà nói, chưa ở đâu mà không khí ô nhiễm đến mức độ giống như ở thành phố này. Tầm nhìn rất hạn chế. Không thể thấy công trình ở khoảng cách quá hai dãy nhà. Giữa trưa vẫn không thấy bầu trời. Có cảm giác như đang sống ở trong một cái chụp màu nâu và mỗi lần hít thở có mùi như thể đứng ngay sau ống xả của xe tải chạy bằng diesel. Lời đề nghị này sẽ là một phép thử nghiệm hay.

Cùng với hơn bốn mươi người làm chứng, tôi đi về trung tâm thành phố, tới một kim tự tháp cổ, nằm kế bên loạt đường cao tốc. Chúng tôi lên đỉnh của kim tự tháp để có thể nhìn thấy thành phố từ mọi hướng, nhưng tầm nhìn rất hạn chế do ô nhiễm dày đặc.

Chúng tôi ngồi thành một vòng tròn, hướng mặt vào nhau trên mặt cỏ rộng ở đỉnh kim tử tháp. Mọi người biết việc tôi sắp làm: thiền và sử dụng trường Mer-Ka-Ba tự nhiên của mình như một ăn-ten để gửi đi rung động của sóng hình mây mưa thời điểm chớp sắp lóe. Tôi đặt đồng hồ, những người khác cũng vậy và chúng tôi bắt đầu thiền.

Sau 15 phút, bỗng một lỗ hổng mở ra trong khoảng trời thẳng đứng từ phía trên đầu tôi. Tất cả mọi người đều hướng mắt lên và chỉ vào nó. Lỗ hổng Kim tự tháp tại thành phố Mexico ngày một rộng. Mười lăm phút tiếp theo, nó đạt đường kính khoảng ba đến bốn cây số. Cái lỗ tròn xoay trông như là giống như ai đó cầm con dao bếp từ phía trên cắt một khoanh của đám không khí ô nhiễm trên bầu trời thành phố và ném nó đi.

Không khí ô nhiễm bị đẩy ra xa khỏi khu vực đỉnh kim tự tháp như một “bức tường” nâu, nhưng ở trung tâm, nơi chúng tôi ngồi, không khí rất sạch quang, thoảng mùi hoa hồng và bầu trời phía trên chúng tôi xuất hiện một đám mây hồng. Một bức tranh đầy ấn tượng.

Trong khoảng từ 3 giờ 15 phút, theo ghi nhận của chúng tôi, bức tường màu nâu không di chuyển. Trực thăng của chính quyền bay đến để kiểm tra cái lỗ, nhưng tôi không rõ họ đã đưa ra kết luận gì. Sau đó, tôi nói với cả nhóm dừng thiền để xem điều gì xảy ra. Ngay khi tôi dừng thiền, bức tường không khí ô nhiễm lập tức lao bổ về phía chúng tôi. Trong vòng mười lăm phút, chúng tôi lại bị bao phủ bởi khói bụi mịt mờ của thành phố Mexico. Một lần nữa, chúng tôi lại bị bắt trong cái chụp ô nhiễm, che kín tầm nhìn thành phố.

Tôi vẫn còn nhớ cảm giác trong trái tim mình khi bay trở về nước Mỹ. Bây giờ tôi biết chính xác rằng ý thức là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề. Tôi khó mà kiềm chế được sự kích động của mình trong suốt chuyến bay dài. Sau lần này, tôi còn thực hiện bốn thử nghiệm khác: hai lần ở Anh và hai lần ở Hà Lan. Lần nào cũng trước sự chứng kiến của ít nhất năm mươi người và lần nào kết quả cũng hoàn hảo. Lần thử nghiệm thứ hai ở Anh đã làm thay đổi cuộc đời tôi triệt để.

Cuộc gặp gỡ với thế giới nội tâm bên trong trái tim

Tôi không nhớ chính xác, sự kiện đã xảy ra ở vùng nào của nước Anh, chỉ nhớ đó là một đầm lầy than bùn đã không nhận được ánh nắng mặt trời trong sáu tháng. Vạn vật ẩm ướt vì bị nhấn chìm trong sương mù dày đặc. Tôi dạy Mer-Ka-Ba cho khoảng năm mươi lăm người. Vào ngày cuối của khóa học bốn ngày, tôi đề nghị thử thiền định làm sạch không khí. Tuy nhiên, không khí đó không hề bị ô nhiễm, chỉ bị sương mù. Nhưng tiếng thì thầm bên trong nói với tôi: “Đừng nghi ngờ. Hãy thiền và quan sát điều gì sẽ xảy ra”.

Bãi hoang

Thuyết phục nhóm người Anh đó đi ra ngoài trời trong thời tiết sương mù và mưa để ngồi thiền thành vòng tròn trên cỏ ướt không phải dễ nhưng cuối cùng họ cũng đồng ý. Chắc họ nghĩ rằng tôi không được bình thường cho lắm, nhưng trong chừng mực nào đó họ vẫn tin tôi.

Mọi người cầm theo ô và những tấm nhựa đen để ngồi. Hãy hình dung, 56 con người, trong đó có tôi, ngồi thành vòng và che ô trong sương mù và mưa, như những tên ngớ ngẩn.

Trong im lặng, tôi bắt đầu thiền, kỳ vọng điều gì đó diễn ra, nhưng không biết chính xác nó là cái gì. Sau mười lăm phút sau, một lỗ xanh hiện ra trên đầu chúng tôi và bắt đầu lớn lên như những gì đã xảy ra ở thành phố Mexico. Chỉ có điều lần này nó phát triển rất nhanh và đạt đường kính khoảng mười ba cây số. Bấy giờ chúng tôi ngồi dưới bầu trời xanh, mặt trời ban chiều bị che khuất sau bức tường sương mù cao khoảng 1km bao vòng tròn quanh chúng tôi. Bỗng nhiên xảy ra một điều không thể tin được.

Một cảm giác trào dâng trong lòng tất cả mọi người đang ngồi trong vòng tròn này: sự hiện hữu của Đấng Sáng tạo. Tôi cảm nhận những dòng năng lượng chạy dọc cánh tay. Ngẩng lên nhìn bầu trời, trăng tròn đang chiếu sáng với tất cả sự lộng lẫy của nó. Nhưng có một điều gì đó rất khác lạ. Bầu trời trong vắt, như thể là không tồn tại bầu khí quyển. Quanh mặt trăng có cái gì đó khác mà tôi chưa bao giờ nhìn và cũng chưa từng nghe kể: những ngôi sao... những ngôi sao xung quanh mặt trăng vào giữa ban ngày! Thật là kinh ngạc!

Bất giác có cái gì đó thu hút sự chú ý của tôi vào mặt đất và tôi nhận ra có nhiều con thú nhỏ – sóc, chó, loài gặm nhấm – vây xung quanh chúng tôi, chăm chú quan sát. Rất nhiều, rất nhiều chim đậu trên các cành cây gần đấy, hót khe khẽ. Tôi nhìn những người ngồi trong vòng tròn. Rõ ràng, họ đang trong một trạng thái ý thức đặc biệt. Tôi mỉm cười, nghĩ đến thánh Francis, và ngắm nhìn các con vật đang cố gắng sán lại gần chúng tôi như thể chúng cũng là những con người.

Tôi nhớ rằng, trong đầu tôi nảy lên ý nghĩ: “Giá mà có nắng, trời hơi lạnh”. Ngay lập tức, vòng tròn sáng bừng lên. Tôi quay người nhìn về phía nguồn sáng và một điều kỳ diệu đang diễn ra. Đúng lúc tôi có mong muốn về hơi ấm, thì bức tường sương mù đã từng che khuất mặt trời thủng một lỗ chính xác chỗ có mặt trời và từ đó chiếu sang một tia nắng như luồng đèn pha quét vào đêm sương mù. Và lỗ hổng đó di chuyển cùng với mặt trời chiều đang lặn trong khoảng một tiếng rưỡi. Vòng tròn nhỏ bé của chúng tôi được tắm trong ánh nắng chói chang trong khi chúng tôi cầu nguyện.

Cuối cùng, tôi nghĩ là những điều chúng tôi chứng kiến như thế là đã đủ và dù sao đi chăng nữa mặt trời cũng sẽ lặn trong khoảng hai mươi phút nữa. Thế là, tôi bảo mọi người dừng thiền. Khi tôi dừng thiền, vòng mây mù dầy đặc lao ngay về chỗ chúng tôi. Chỉ vài phút sau, chúng tôi lại bị bao vây trong mưa và mù.

Khi chúng tôi đứng lên, đã xảy ra một phép màu. Một người đàn ông ngồi trên xe đẩy đã mười năm đến với khóa học này cùng với vợ. Ông ta chỉ đứng nổi vài giây để chuyển tư thế hoặc để thay sang xe đẩy khác và lúc nào ông cũng cần sự giúp đỡ của vợ. Khi những người tham dự rời khỏi vòng tròn, người đàn ông đứng lên, đi bộ về nhà cùng với những người khác, bỏ lại chiếc xe đẩy phía sau. Ông ta tự đi ! Không thể tưởng tượng được. Hơi lảo đảo, nhưng ông đang đi.

Người vợ không thể thốt lên được lời nào, nhưng sau đó, bà nói với tôi rằng chồng bà không những đi được mà cột sống của ông ấy cũng đã thẳng ra, khiến ông cao hơn trước khoảng 15cm. Trái tim chúng tôi tràn ngập niềm vui và được tiếp thêm sức mạnh bởi những gì vừa được chứng kiến.

Là nhà chữa trị hàn gắn, tôi đã chứng kiến bao nhiêu điều kỳ diệu trong đời tuy vậy căn bệnh thường quay lại ngay hôm sau. Tuy nhiên sáng hôm sau, người đàn ông này đã đi bộ đến nhà ăn, bên cạnh người vợ rạng ngời. Ngoài ra, một người phụ nữ bạn của cặp vợ chồng này hàng năm đều gọi điện cập nhật tình hình sức khỏe của ông cho tôi. Năm năm đã trôi qua, ông ấy vẫn tự đi bộ bình thường.

Người đàn ông này, bằng chính trải nghiệm trên cánh đồng nước Anh, đã chứng ngộ bản chất của hiện thực. Tôi tin ông đã nhận ra rằng vạn vật là ánh sáng và rằng thế giới được tạo ra từ linh hồn con người; ông hoàn toàn không chút nghi ngờ rằng bệnh tật có thể được chữa lành bằng ý thức, và ông đã làm như thế.

***

Trải nghiệm tại nước Anh cũng đã thay đổi cuộc đời tôi, đưa tôi rẽ ngoặt về một sự thức tỉnh mà khi đó tôi còn chưa hiểu. Tôi bắt đầu nghiệm ra rằng linh hồn vĩ đại hơn bất kỳ điều gì mà khoa học hay lý trí có thể biết nắm bắt được. Thế giới bên ngoài được sinh ra từ thế giới bên trong, trái tim của con người, - điều này tôi tin tuyệt đối.

Tôi biết rằng có “cái gì đó” trong trái tim con người. Bởi vì, khi trường Mer-Ka-Ba của tôi phát ra rung động của một đám mây mưa, tôi có thể cảm thấy vị trí của nguồn rung động này - trái tim tôi – và điều đó đạt được nhờ vào tình yêu với Mẹ Trái đất. Dần dần, tôi đã được chuẩn bị cho một nhận thức mới về mối quan hệ của tôi với cuộc đời.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh