Quyền Năng Tư Tưởng: Chương 7

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG: CHƯƠNG 7

ÐỊNH TRÍ

Về việc rèn luyện tinh thần, đối với những người sơ cơ, không gì khó khăn cho bằng tập định trí. Trong những giai đoạn đầu tiên, tác động của tinh thần là sự tiến triển do chủ ý lanh lẹ, tiếp nhận nhanh chóng, kích động liền liền từ cảm giác này đến cảm giác nọ, tập trung ý tưởng mau lẹ, hết việc này đến việc kia. Trong bước đầu, điều cần ích quan trọng cho sự tiến hóa là trí linh động hướng dẫn sự chú ý thường xuyên ở ngoại cảnh. Khi cái trí thu góp nguyên liệu dùng vào dịp suy tưởng, tính linh động càng nhiều thì càng có lợi, càng sống nhiều kiếp và nhờ biết linh động thì trí khôn ngày càng già giặn. Vả lại, cũng nhờ năng luyện tập mà trí não cũng mở mang thêm. Từ ngàn xưa, trí óc của chúng ta quen hướng ngoại nên thường vọng động và hay để ý triền miên đến những cảnh vật biến đổi bên ngoài, giờ đây, bất thần chúng ta ép buộc cái trí từ bỏ hẳn thói quen ấy, bắt nó trụ vào một chỗ, thì không khi nào cái trí chịu vâng lời ta liền; tất nhiên, nó chống đối lại, càng bị ép buộc nó càng chống trả mãnh liệt và lồng lên như ngựa bất kham lần đầu tiên bị tra hàm thiếc.

Như chúng ta đã thấy, khi thể trí chủ ý đến hình ảnh đối tượng nào thì nó mô phỏng lại hình ảnh ấy. Ðạo sư Patanjali dạy: “Hãy chận đứng sự biến đổi của tư tưởng”, nghĩa là phải ngăn cản những hình ảnh thay đổi liên miên ở ngoại cảnh. Ðịnh trí liên quan đến sắc tướng thì bắt buộc cái trí chủ ý vào một hình ảnh cố định, không cho nó tưởng nghĩ đến hình ảnh nào khác. Còn định trí liên quan đến Người hiểu biết thì tâm trí phải chủ ý đến một hình ảnh để rồi mô phỏng lại rõ ràng hình ảnh đó trong tâm trí.

Khi định trí, tâm thức chỉ chăm chú tới một hình ảnh mà thôi. Người hiểu biết phải hoàn toàn chủ ý đến một điểm duy nhất, không lao chao, không xao xuyến. Cái trí thường hay nhảy nhót lung tung, rước vật này đuổi vật nọ, chạy theo sự quyến rủ của ngoại vật và định hướng theo sự vật liên miên, vì vậy, cần phải cương quyết ép buộc cái trí chỉ chủ ý đến một việc mà thôi và xua đổi các ấn tượng khác đang len lỏi vào.

Khi cái trí đã thuần và chịu chủ ý đến một hình ảnh duy nhất và Người hiểu biết chiêm nghiệm hình ảnh ấy để có thể đạt được hiểu biết thông suốt các sự vật mà ngôn ngữ ở cõi trần không thể diễn tả cho ráo lý. Tỷ như chính mắt chúng ta ngắm một bức tranh hay xem một thắng cảnh, thì chúng ta ý thức đầy đủ và nhận định rõ ràng hơn là đọc trong sách báo hoặc nghe kẻ khác nói lại. Nếu chúng ta tập trung ý chí vào một cảnh vật nào, rồi hình dung cảnh vật trong thể trí, thì chúng ta hiểu biết hoàn hảo hơn là đọc suông. Ngôn ngữ tiêu biểu cho sự vật, còn định trí là hình dung sự vật và bổ túc chi tiết. Ngôn ngữ dùng để phác họa, còn tâm thức dùng để tiếp xúc chặt chẽ với sự vật đã phô diễn.

Chúng ta nên nhớ rằng định trí không phải là trạng thái thụ động, mà trái lại, là một trạng thái chủ động mạnh mẽ, đúng qui tắc. Trạng thái vật chất tương tự tinh thần, như khi chúng ta chạy nhảy hay rán sức đương đầu với một công việc khó nhọc dằng dai thì các bắp thịt của chúng ta bị dồn ép lại. Thực vậy, người nào mới bắt đầu luyện tập thể thao thì thấy sự căng thẳng này biểu lộ khắp châu thân. Cũng như khi mới tập định trí thì người sơ cơ cảm thấy thân thể mệt mỏi, các sớ thịt đều bải hoải, chớ không phải chỉ riêng hệ thống thần kinh mệt mỏi mà thôi đâu.

Trong khi mắt chăm chỉ nhìn một vật gì, chúng ta thấy rõ nhiều chi tiết. Trái lại, nếu ngó thoáng qua thì chúng ta không thể nhận rõ được. Cũng một lẽ ấy, phải định trí thì chúng ta mới có thể nghiệm xét một ý tưởng được sâu sắc và đầy đủ hơn lúc thường. Có định trí thì mãnh lực mới gia tăng, đồng thời thấy xa hiểu rộng hơn. Tỷ như một người đi bộ trong mười phút, chỉ đi được một khoảng đường ngắn và thấy cảnh vật hai bên đường ít hơn người chạy. Cũng trong thời gian ấy, người chạy vượt qua một khoảng đường xa hơn và thấy nhiều cảnh vật hơn người đi bộ, còn năng lực vận dụng các sớ thịt của hai người đều như nhau.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Lúc mới tập định trí, người ta phải trải qua hai điều khó khăn như sau:

1- Xua đuổi những hình ảnh chập chờn xuất hiện liên miên trong trí. Ðừng để những ấn tượng ngoại lai ám ảnh trí não, tuy nhiên, Người hiểu biết cũng phải chủ ý phần nào để ngăn chận những ý tưởng vơ vẩn lảng vảng trong trí. Một khi ngăn cản được ấn tượng ngoại giới thì cái ý nghĩ ngăn cản phải chấm dứt, vì cần có sự thăng bằng hoàn toàn cho nên không còn có cái ngăn cản hay cái bị ngăn cản nữa, mà chỉ có cái yên lặng thật sự, yên lặng hoàn toàn. Như vậy, những làn sóng rung động ngoại cảnh mới không thể len lỏi thâm nhập cảm nhiễm tâm thức.

2- Trong lúc định trí phải giữ vững một hình ảnh, chẳng những phải ngăn chặn các cảm xúc từ bên ngoài xen vào, mà còn phải ngưng mọi tác động do tính tự nhiên của cái trí, tác động này thường được ứng dụng để kiểm soát và sửa đổi nội dung của trí, ngõ hầu tạo mối liên lạc mới và tìm kiếm chỗ dị đồng ẩn tàng trong tâm thức.

Không phải bắt cái trí chủ ý đến một vật là đủ, song phải sai khiến nó chăm chú vào vật đó nữa. Dĩ nhiên, không vì thế mà cái trí ngưng hoạt động, trí phải hướng trọn vẹn vào con đường vận hà duy nhất. Thí dụ, một khối nước to chảy trên một diện tích rộng lớn thì sức chảy rất yếu ớt, nhưng nếu khối nước ấy chảy vào con kinh nhỏ hẹp thì nó tạo thành một sức mạnh khủng khiếp, phá tan mọi chướng ngại rất dễ dàng. Bởi vậy, các thiền sư chỉ đặc biệt chú trọng đến một mục đích duy nhất, là vì tinh thần tự nó có một năng lực hữu hiệu, tăng tiến vô biên, nên chẳng cần phải thêm thắt cái gì khác để làm cho nó mạnh hơn. Cũng như nước nóng bốc hơi bay tủa lan tràn trên không trung, nhưng không đủ sức đuổi một con ruồi, song le, nếu ta dẫn hơi nước ấy vào trong một ống hơi thì nó thừa sức làm chuyển động piston của guồng máy.

Giữ tâm không vọng động là một việc làm rất khó, trăm ngàn lần khó khăn hơn là bắt cái trí đừng cảm xúc ở ngoại cảnh, vì sự huấn luyện này liên quan đến đời sống viên mãn trong thâm tâm. Tự mình cô lập với thế giới bên ngoài còn dễ dàng hơn là giữ tâm thanh tịnh, vì nội giới hòa đồng với Chơn ngã. Thật ra, trong giai đoạn tiến hóa hiện tại, hầu hết mọi người đều dùng cái “Ta”, tức cái “tôi” để biểu thị chính mình. Tuy nhiên, tìm cách giữ tâm yên lặng là bước đầu trên con đường tiến hóa của tâm thức. Chúng ta cảm thấy rằng Kẻ chế ngự và Người bị chế ngự có thể là một, và do thiên tính, chúng ta đồng nhất với Kẻ chế ngự. Như khi tôi nói: “Tôi bắt cái trí của tôi phải yên lặng”. Cái Tôi biểu thị cho tâm thức chế ngự, còn cái của tôi vốn lệ thuộc “tôi”, nó là vật sở hữu của “tôi”.

Sự phân biệt này phát khởi một cách vô ý thức, còn người học đạo thì ý thức được sự song đôi: “có một cái gì đang kiểm soát và có một cái gì đang bị kiểm soát”. Tách rời cái hạ trí cụ thể, cái “tôi” cảm thấy có một quyền lực mạnh mẽ hơn trước, một kiến thức sâu rộng, sáng suốt và cảm biết cái “tôi” này là Chơn ngã không lệ thuộc xác thân, cũng không tùy thuộc thể trí. Ðó là quan niệm đầu tiên hay là cảm giác bằng ý thức của bản tính chân thật trường tồn đã được lý trí xác nhận. Thật ra, sự hiểu biết này do huệ giác khai mở trong khi định trí.

Nhờ công phu luyện tập hằng ngày không gián đoạn, nên trí tuệ mở rộng, đi sâu vào nội tâm, đi sâu mãi, sâu mãi vào nội tâm vô tận. Cái quyền năng hiểu biết ngay tức khắc, rõ ràng và chính xác sẽ được khai mở - nói một cách khác, chứng đắc huệ giác - là khi nào chúng ta không còn dùng đến trí óc nặng nề và chậm lụt để suy luận nữa. ( Ðộc giả đừng quên rằng từ “trí” thường dùng nơi đây có nghĩa là thể trí hay phàm trí và cũng gọi là hạ trí ). Vì cái “Tôi” tiêu biểu cho Chơn ngã có bản chất là sự hiểu biết, nên mỗi khi tiếp xúc với điều gì chân thật, cái tôi nhận biết những rung động ấy đúng, thì nó tạo cho nó một hình ảnh chắc chắn rõ rệt, còn những điều sai lầm nó tạo nên hình ảnh méo mó, lệch lạc. Trừ phi thể trí chỉ còn giữ vai phụ thuộc không đáng kể thì quyền năng Chơn ngã mới biểu lộ rõ ràng. Còn trực giác tương tự sự nhìn trực tiếp ở cõi trần - thay thế cho lý trí mà chúng ta có thể so sánh với xúc giác. Chắc chắn cái nhìn thoáng đầu tiên, bởi có nhiều sự giống nhau về “hình thức” nên không thể phân biệt được. Trực giác phát triển do lý trí suy tư không ngừng và không thay đổi đặc tính, cũng như nhãn quan phát triển là do xúc giác vậy. Thật ra phải có sự biến chuyển lớn về quá trình, nhưng điều này không đến nỗi làm cho chúng ta mù quáng trước sự tiến hóa điều hòa trong trật tự. Trực giác của kẻ dốt nát đần độn thì đầy dục vọng, rất thấp thỏi, và chỉ có tính cách tạm thời, trực giác của họ còn kém lý trí nữa.

Khi ta định trí về một đối tượng gì, cứ giữ vững một mục đích duy nhất trong giây lát, giai đoạn kế tiếp là lìa bỏ đối tượng ấy, song trí phải tập trung lại, nhưng không trụ vào chỗ nào hết, như vậy sự luyện trí đã thuần thục. Trong giai đoạn này, trí không được biểu lộ một hình ảnh nào, tâm phải hoàn toàn yên tịnh, yên tịnh như nước phẳng lặng trên mặt hồ không gợn sóng. Trạng thái vô niệm này chỉ bộc khởi nhất thời, rất ngắn ngủi tương tự “trạng thái tới hạn” của các nhà hóa học, là tiếp điểm giữa hai trạng thái phụ của vật chất đã được thừa nhận và qui định. Nói cách khác, khi thân trí an tịnh thì tâm thức thoát ra ngoài thể trí, nhập vào “trung tâm laya” rồi vượt qua trung tâm ấy, là tiếp điểm trung hòa giữa hạ trí và thượng trí. Con người xuất thần trong khoảnh khắc, đó chính là lúc thần thức lìa cảnh vật ở cõi thấp (hạ giới) để nhập diệu với cảnh trí cao cả. Chơn ngã tạo cho thể trí những ý tưởng trác tuyệt để có thể rung động cùng nhịp với Chơn ngã. Chơn ngã uốn nắn thể trí có nhãn thức cao để nhìn thấy cảnh giới xa xăm huyền diệu, ngõ hầu truyền đạt những ý tưởng siêu việt cho thể trí. Ngoài phương tiện này, thể trí không còn cách nào khác để cảm ứng với cõi trần.

Những bậc thiên tài, cảm ứng được những ý tưởng siêu việt ở cõi trần gọi là linh cảm. Nguồn linh cảm giống như tia sáng trong tâm hốt nhiên bừng tỏ xán lạn huy hoàng khắp vũ trụ. Lúc trở lại vị trí bình thường, vị anh tài đem ánh sáng truyền bá cho thế gian rất bối rối khi phải giải thích trạng thái linh cảm đã đạt được. Vị ấy chỉ cảm biết có cái gì rất huyền diệu lạ lùng khó truyền đạt như ở câu văn: “... cái uy lực đó sang sảng trong tâm tôi, nó sống trên môi tôi và ra dấu bằng bàn tay của tôi”.

NƠI NÀO CÓ ÐỐI TƯỢNG LÀ CÓ TÂM THỨC ÐÁP ỨNG

Trong thế giới hữu hình, sắc tướng là hình dạng, mỗi hình dạng đều choán một chỗ nhất định, không thể có một hình dạng nào mà không choán lấy một chỗ. Dĩ nhiên, mỗi hình dạng đều chiếm một vị trí, hoặc gần hoặc xa hơn những hình dạng khác, và những hình dạng sau này cũng phải chiếm những vị trí, hoặc xa hoặc gần, đối với hình dạng đầu tiên. Nếu có một hình dạng thay đổi vị trí, nghĩa là di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác. Nói theo khoa học, hình dạng ấy vượt qua một khoảng không gian thì việc dời chỗ phải tùy thuộc tốc độ, có thể mau lẹ như chớp nhoáng, mà cũng có thể chậm chạp hơn rùa bò, tùy thời gian.

Tuy nhiên đối với tâm thức, không gian kể như vô nghĩa, vì tâm thức thay đổi trạng thái chớ không thay đổi địa điểm trong không gian, tâm thức bao hàm nhiều hay ít, hiểu biết hay không hiểu biết những việc ngoài phạm vi tâm thức, để có thể hay không có thể đáp ứng sự rung động của vô ngã.

Tâm thức mở rộng tầm hiểu biết tùy theo sự nhạy bén của nó, nghĩa là tùy khả năng đáp ứng và tái tạo sự rung động. Bởi vậy, sự di chuyển trong không gian, đối với tâm thức, không thành vấn đề. Chỉ có sắc tướng là hình dạng mới liên quan đến không gian để cảm nhiễm lẫn nhau, nhiều hay ít, tùy khoảng cách và năng lực tâm thức này đối với tâm thức khác, tăng hay giảm, tùy ở khoảng cách gần hay xa trong không gian.

Nhờ biết định trí, người học đạo tự mình khám phá thêm, và hiểu biết rằng, đối với tâm thức, không có không gian. Một vị Chơn sư đắc quả có thể thấy và biết rõ trong tâm giới, các đối tượng ở cõi xa xăm từ một bầu hành tinh khác, nhưng sự thấy biết này không bằng thần nhãn của cái vía giữ nhiệm vụ như người ta thường nhìn thấy trong kính viễn vọng, vì toàn thể vũ trụ hiện hữu chỉ biểu thị bằng một điểm trong tâm mà thôi. Bởi vậy, những vị thành chánh quả đều đạt đến Trung tâm của Sự sống và thấy tất cả sự vật đều ở nơi đó, tức là tất cả vạn vật đều ở trong tâm.

Kinh Áo nghĩa (Upanishad) có câu : trong tâm có một phòng nhỏ, nơi đó có “dĩ thái nội tâm” đồng phát triển với không gian, đó là Atma, là Chơn ngã bất diệt, mọi đau khổ không cảm nhiễm.

“Trong đó có bầu trời và thế giới, có lửa và gió, có mặt trời và mặt trăng, có tia chớp và các ngôi sao, có tất cả những gì hiện có và những gì chưa có trong cái Ðó (vũ trụ)”.

“Dĩ thái nội tâm” là một từ ngữ cổ xưa huyền bí dùng miêu tả cái bản tính tinh anh của Chơn ngã, là một và bao hàm tất cả; thế nên, người nào nhận thức được Chơn ngã là hiểu biết hết các điểm trong vũ trụ.

Khoa học nói rằng: Mỗi cử động của xác thân ở cõi trần đều ảnh hưởng đến những ngôi sao xa xăm nhất, bởi vì các xác thân ở hạ giới đều chìm đắm và thấm nhuần dĩ thái, là trung gian liên tục truyền làn sóng rung động đi khắp nơi, nhờ sự rung động không bị cọ sát nên năng lực không hao hết dù có truyền đi bất cứ nơi nào xa xăm. Ðiều này rất đúng về phương diện “hình dạng” của Thiên nhiên. Còn về quan điểm “sinh lực” của Thiên nhiên, tức là sự sống, thì tâm thức bao trùm tất cả và cũng liên tục như nhau.

Chúng ta cảm thấy mình đang ở “tại đây” là vì chúng ta chịu ảnh hưởng những ấn tượng của các đối tượng bao quanh chúng ta. Bởi vậy, nếu năng lực tâm thức rung động đáp ứng đối tượng “ở xa” mà cũng mạnh như rung động của đối tượng “ở gần”, thì chúng ta cảm thấy đối tượng ở xa đó như hiện đang ở bên cạnh chúng ta. Nếu tâm thức rung động ứng đáp một biến cố nào trên Hỏa tinh cũng rõ rệt như biến cố ấy đang xảy ra trong gian phòng mà chúng ta đang ở đây, thì chúng ta nhận thức được biến cố ở Hỏa tinh cũng rõ rệt như chúng ta đang có mặt trong gian phòng này, chớ không có sự khác biệt trong sự hiểu biết và chúng ta cảm thấy đang có mặt “ở tại đây” cũng như đang ở nơi khác vậy. Ðây là vấn đề thuộc về khả năng tiến hóa, chớ không thuộc về vấn đề ở một nơi nào trong không gian. Chỗ nào tâm thức ứng đáp được là chỗ đó có Người hiểu biết và mọi tiến triển về năng lực dùng cho sự ứng đáp, đã cảm nhiễm vào tâm thức những gì do tâm thức đáp ứng và những gì thuộc phạm vi rung động bên trong.

Nơi đây, sự tương tự về vật chất cũng lại giúp ích cho chúng ta nữa. Sở dĩ chúng ta thấy được là nhờ rung động của ánh sáng truyền đến mắt chớ không có gì khác. Mắt trần thấy được tùy phạm vi rung động của ánh sáng mà thôi, còn mọi vật ở bên trên hay bên dưới phạm vi ấy, thì mắt trần chỉ thấy đen tối như mực. “Thượng Hạ tương đồng”, đó là câu châm ngôn của cổ nhân và cũng là khẩu quyết mở con đường sống để thoát khỏi mê hồn trận mà chúng ta đang bị vây khổn; nhờ việc nghiên cứu sự phản ảnh ở hạ giới, đôi khi chúng ta học hỏi thêm được vài nguyên lý của đối tượng ở cõi cao đã tạo ra phản ảnh.

Có một sự khác biệt giữa hai trường hợp này là:

1- Năng lực hiểu biết bất cứ ở nơi nào, chốn nào.

2- Năng lực “đi lên” ở các cõi cao.

Trường hợp thứ nhất, dù Jiva mang thể trí và thể vía, hoặc chỉ mang thể trí mà thôi, cũng có thể di chuyển mau lẹ, từ chỗ này đến chỗ khác, và nhận thức được sự thay đổi vị trí, nhưng có một điểm khác biệt quan trọng là theo trường hợp thứ nhì, khi Jiva ở giữa những đối tượng đông đúc nơi cõi trần thì nó không hiểu biết gì hết về thế giới tân kỳ lạ lùng đó và nó có vẻ ngơ ngác xa lạ. Trái lại, theo trường hợp thứ nhất, thì Jiva thấy và hiểu biết tận tường tất cả mọi hình thức và hoàn cảnh sinh hoạt ở cõi trên. Nghiên cứu học hỏi như thế sẽ được ánh sáng của Chơn ngã Ðơn nhất chiếu rọi khắp nơi, thân tâm yên vui, hiểu biết thông suốt cái gì mà người thường không thể biết, dẫu cho họ trải qua nhiều kiếp luân hồi trong cõi sắc tướng hỗn độn này.

Ðịnh trí là một phương thế giúp cho Jiva thoát khỏi ách nô lệ của hình tướng để vào chốn An tĩnh. Một vị Chơn sư đã nói: “Kẻ nào không biết định trí thì thân tâm không an tĩnh” , vì sự an tĩnh xây tổ trên đỉnh núi cao, nơi đó lượng sóng hình tướng không bao giờ tràn tới được.

ÐỊNH TRÍ CÁCH NÀO ?

Khi đã hiểu được lý thuyết về định trí, giờ đây hành giả bắt đầu thực tập.

Nếu hành giả thành tâm mộ đạo thì dễ tập định trí, vì có thể chọn một đối tượng nào mình sùng bái để chiêm ngưỡng. Như vậy, tâm hồn hành giả sẽ bị lôi cuốn vào đối tượng quí mến đó mà không chủ ý đến việc khác. Cái trí thường hay bị quyến rủ chạy theo sự ưa thích, càng ưa thích thì càng say mê, muốn giữ mãi hình ảnh mình yêu mến đó và loại bỏ những gì làm cho trí não ưu tư phiền muộn. Bởi vậy, cái trí để ý những hình ảnh mà họ thích và thường hay ngắm nhìn, tưởng niệm những hình ảnh ấy, dầu có ai ép buộc hay ngăn cấm không cho họ tưởng nhớ đến hình ảnh đó thì không khi nào họ chịu vâng lời.

Người sùng đạo tập định trí rất mau, là vì họ chỉ tưởng nhớ đến đối tượng mà họ tôn thờ, họ tưởng tượng hình ảnh ấy và ghi nhớ mãi trong lòng. Bởi vậy, người Công giáo tưởng nhớ Chúa Ky-tô (Christ), Ðức Trinh Mẫu, Thánh Bổn mạng, Thiên thần Hộ thủ; người Ấn giáo tưởng đến Ðấng Maheshvara, Trời Vishnu, Nữ thần Uma, Ðức Krishna; người Phật giáo tưởng đến Ðức Phật, Ðức Bồ tát; người Ba tư thì tưởng Thần Ahuramazda, Thần Mithra, v.v... Mỗi đối tượng đều có ý nghĩa kêu gọi sự thờ phượng của tín đồ, do tín ngưỡng và lòng tôn kính. Trí họ liên kết khăn khít với ảnh tượng, vì đó là nguồn hạnh phúc an vui. Nhờ vậy, người thành tâm mộ đạo chỉ cần cố gắng thêm một chút là có thể định trí được.

Tuy nhiên, dù hành giả không phải là người mộ đạo, sự hấp dẫn cũng là yếu tố quan trọng giúp ích cho công phu định trí, nhưng trường hợp này, sự hấp dẫn đưa hành giả đến một Lý tưởng, chớ không hướng dẫn hành giả đến một Ðấng nào. Phương pháp này rất hữu ích cho những người sơ cơ. Người trí thức mà không sùng đạo thì chỉ có những ý tưởng sâu sắc, hoặc vấn đề gì cao siêu mới hấp dẫn họ được. Vì vậy, cần phải tạo những điều ấy cho thành hình để trí họ chăm chú vào đó. Miếng mồi hấp dẫn nồng nhiệt và hứng thú nhất của hạng trí thức là sự hiểu biết sâu rộng và cũng là một trong những thị hiếu của người đời thường hay quyến luyến.

Một phương pháp khác rất hữu hiệu cho người không thích sùng bái cá nhân hay một hình tượng nào, là chọn một đức tính dùng làm đề tài định trí. Tánh hạnh tốt khêu gợi tình yêu chân thật và cảm ứng lòng ái mộ trí thức về chân-thiện-mỹ. Hành giả có thể hình dung trong tâm trí một đức tính, càng trọn lành càng tốt, sau khi xem xét qua những ảnh hưởng đã thu thập được, hành giả phải chủ tâm vào bản tính trọng yếu của đức hạnh ấy.

Vả lại, định trí là một tánh tốt có ích, vì tâm hồn tạo tác, uốn nắn đức tính và làm cho nó rung động, đức tánh dần dần thuộc về thành phần bản tính và thâm nhập vào đặc tính. Sự tạo tác của tâm trí nơi đây hẳn nhiên là một hành động tự kỷ tạo tác, vì sau một thời gian, tâm trí tạo nên hình thức để dùng vào việc điều khiển cái trí cho nó tập trung vào những hình thức, để nó trở thành quan năng phát biểu quen thuộc. Kinh điển từ ngàn xưa rất chí lý: “Con người do tư tưởng tạo thành, kiếp này con người tư tưởng thế nào thì kiếp sau họ trở nên thế ấy”.

Dù hành giả mộ đạo hay không, khi muốn bắt cái trí chủ ý vào một đối tượng thì không bao giờ nó chịu vâng lời. Trái lại, cái trí cứ nghĩ ngợi vơ vẩn, hết việc này đến việc nọ - điều này thường xảy ra. Vậy phải kéo cái trí trở lại, ép buộc nó phải chủ ý vào mục tiêu đã định. Lúc đầu, cái trí hay nghĩ vơ vẩn, nhưng rồi bất thần hành giả chợt tỉnh, thấy cái trí nghĩ ngợi việc gì đâu đâu, chớ không chăm chú suy nghĩ theo ý muốn của mình, vì thế, hành giả phải kiên nhẫn lắm mới đủ sức kéo cái trí trở lại mục tiêu. Rõ thật, luyện tập như vậy rất mệt nhọc và buồn chán, nhưng không còn cách nào khác nữa, vì đó là phương tiện duy nhất để tập định trí thành công.

Một phương pháp luyện trí khác nữa cũng có hiệu quả là mỗi khi cái trí đi rong ra ngoài đề thì hãy nhẫn nại kéo nó trở lại và hướng dẫn nó quay về vị trí cũ. Cách này giống như người kỵ mã tập ngựa cho nó chiều theo ý muốn của chủ nhân.

Tư tưởng liên tục chỉ là bước đầu tiên trong việc luyện tập định trí, thật ra tư tưởng liên tục không phải là định trí, vì nó không giống như định trí. Tư tưởng liên tục là trí lần lượt tưởng nghĩ từ hình ảnh này sang hình ảnh khác, chớ chưa chủ ý riêng biệt một hình ảnh nào cả. Tư tưởng liên tục dễ luyện tập hơn là tập định trí, người sơ cơ dùng phương pháp này để tiến lần đến giai đoạn khó khăn hơn. Phương pháp sau đây thường giúp ích cho người sùng đạo: chọn một cảnh tượng trong đời sống của một vị nào mà mình ngưỡng mộ, rồi hình dung ra vị ấy thật sống, đầy đủ chi tiết và lồng trong khung cảnh có nhiều sắc thái địa phương. Như vậy, tâm trí tiến lần theo một chiều và được hướng dẫn đến sự chú ý tới dung nghi của vị mà mình tôn kính. Phải mô phỏng cảnh tượng ấy trong tâm trí và cảm thấy như sự thật, để có thể nhờ từ điển mà tiếp xúc với cảnh tượng ấy ở trên cõi cao, bằng những hình ảnh thâu nhận thường xuyên trong vũ trụ dĩ thái. Như thế, kiến thức mới mở rộng và hiểu biết thêm sâu những điều mà bút mực dưới trần không diễn tả được. Nhờ phương tiện này, người sùng đạo có thể thu nhận được từ điện và liên lạc trực tiếp thân mật đậm đà hơn với vị mà họ ngưỡng mộ. Cũng bởi tâm thức ở khắp mọi nơi, cho nên không bị không gian giới hạn. Như chúng tôi đã giải bày: chỗ nào có đối tượng là có đáp ứng.

Dù sao, chúng ta nên nhớ kỹ rằng: định trí không phải là suy tưởng liên tục. Ðịnh trí là tâm trí chỉ chăm chú vào một đối tượng duy nhất, rồi hòa mình trong đó mà không lý luận gì cả.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh