Tứ Đại Pháp Kinh: Nhân Duyên Pháp

TỨ ĐẠI PHÁP KINH: NHÂN DUYÊN PHÁP

NHÂN, THẦN, THÁNH, TIÊN, PHẬT

DUYÊN may tại thế gian

PHÁP đạo vô thượng đạo

giảng cứu trần hoàn

NHÂN: là công năng tạo tác, còn gọi là công năng chính

DUYÊN: là năng lực hỗ trợ, còn gọi là công năng, phụ

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Các pháp hình thành từ bởi công năng tạo tác và những năng lực hỗ trợ phụ vào, cho kết quả nhanh, chậm, tốt, xấu, thiện, ác, đúng, sai... đều gọi là NHÂN DUYÊN PHÁP.

Bởi vì các pháp này hình thành từ LÝ NHÂN DUYÊN, nên nó KHÔNG CÓ THẬT, chỉ có tạm thời cho đến khi Nhân tiêu Duyên cạn thì nó biến mất.

NHÂN DUYÊN PHÁP có ba loại:

- Nhân duyên pháp tự nhiên

- Nhân duyên pháp xã hội

- Nhân duyên pháp tâm linh

NHÂN DUYÊN PHÁP TỰ NHIÊN là các pháp hình thành từ các yếu tố trong thiên nhiên. Các hiện tượng như mưa, gió, bão, nắng... đều được gọi là Nhân Duyên Pháp Tự Nhiên. Mưa là do hơi nước gặp lạnh, tụ lại thành giọt, rơi xuống thành mưa. Ðến khi khối lượng mây tan ra nước, rơi xuống hết thì cơn mưa chấm dứt. Bão, gió, nắng... cũng vậy.

NHÂN DUYÊN PHÁP XÃ HỘI là các pháp hình thành từ các yếu tố trong đời sống xã hội, mà sinh động nhất là xã hội loài người. Các hiện tượng cây to che rợp cây nhỏ, cá lớn nuốt cá bé, thú hung dữ ăn thịt thú hiền; thực thế, kẻ trí phỉnh gạt người ngu, chiến tranh loạn lạc, bệnh hoạn lầm than, đói rách khổ nạn... diễn ra hằng ngày mà các con chứng kiến dưới cõi hồng trần, đều thuộc về Nhân Duyên Pháp Xã Hội.

Ví như, hiện tượng chiến tranh là do xung đột (NHÂN) về quyền lực, chính trị, về quyền lợi kinh tế, về tranh giành ảnh hưởng văn hóa, giáo dục... giữa các khối, các nước mà không giải quyết bằng cách thương lượng đàm phán. Tất cả sẽ đưa đến giải quyết bằng vũ lực (DUYÊN) lôi kéo hàng vạn triệu sinh linh vào nghiệp SÁT (QUẢ). Ðến khi chém giết hả hê, ghê tởm, chán ngán rồi, giải quyết mâu thuẩn chính trị, kinh tế... được rồi thời trở lại trạng thái thanh bình tạm thời để chờ những cuộc chiến tranh khác.

NHÂN DUYÊN PHÁP TÂM LINH là các pháp hình thành từ ngoại cảnh (công năng hỗ trợ) và nội tâm (công năng tạo tác). TÂM và PHÁP nương nhau, phản ảnh lẫn nhau mà thành. Các hiện tượng tham lam, buồn chán, nóng giận, si mê, kiêu ngạo, đố kỵ, khinh ghét, tỵ hiềm, phân biệt, chia rẽ, chấp ta ngã mạn... dẫn đến phân loại màu da, phân biệt giai cấp, chủng tộc, phân rẽ tôn giáo... khiến xã hội băng hoại, điêu đứng, lầm than bế tắc... không tìm đâu ra lối thoát. Thế nên, CHA sẽ hướng dẫn cho các con thấy con đường đi lên một cách sáng suốt để các con tu học (sửa các điều sai lầm về việc làm). Càng ngày càng tiến bộ hơn, càng lúc càng tiến hóa đến chỗ chơn chánh đúng với các đạo lý hơn.

Trước khi hệ thống hóa giáo lý, CHA tạm nhắc lại các điều dạy của các vị giáo chủ của các tôn giáo cổ, thăng tiến lên và phát triển ra để cho các con thấy rằng, các vị đó đều là những PHÂN THÂN ÐIỂN QUANG của CHA xuống thế vào các thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau, để dìu dắt hướng dẫn các tiểu hồn cho đi lên cõi sáng suốt an lạc. Thế nên, các vị đó cũng là CHA đóng vai đó thôi.

PHẬT cũng TA, mà LÃO cũng TA

Khổng đạo, Gia Tô vốn một nhà

Bà La Môn, Hồi Giáo, Thông Thiên học

Cũng từ một gốc: THƯỢNG ÐẾ ra.

Các điều dạy của KHỔNG PHU TỬ tức Ðức Văn Tuyên Khổng Thánh mà các con bên đạo nhân thường cúng thờ, có thể tóm tắt thành các điều chính sau đây:

- Cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ

- Tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức

  • CÁCH VẬT: thường quán sát sự vật.
  • TRÍ TRI: là nghiên cứu tự gốc rễ căn nguyên của vạn hữu.
  • CHÁNH TÂM: là thanh lọc cho tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm tà đạo.
  • THÀNH Ý: là rèn luyện ý chí cho dũng mãnh, kiên nhẫn.
  • TU THÂN: là sửa những điều sai lầm về thân mạng.
  • TỀ GIA: là điều hòa những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình, gia tộc.
  • TRỊ QUỐC: là cai trị nhân dân trong nước theo đường lối chân chính, an bang tế thế, an cư lạc nghiệp.
  • BÌNH THIÊN HẠ: là mang lại an lạc thanh bình cho nhân loại.

Phần đông các con chê Khổng giáo quê mùa, cũ kỷ không thích hợp với thời đại văn minh nguyên tử. Nhưng thử hỏi có con nào thời mạt pháp này làm y theo các lời dạy của nó? Số thực hiện được thời rất ít. Còn số nào chưa làm được thời hãy thức tỉnh thực hiện đi. Ðể chuẩn bị đón nhận pháp của CHA soi sáng cho tiến lên. Muốn thực hiện được công việc vĩ đại, trước hết các con phải thực hiện công việc nhỏ, tập sự cho quen, rồi tiến sang những công việc lớn hơn, nặng hơn, khó nhọc hơn, gian khổ hơn.

Những công việc đó là:

Tam Cương: TRUNG - KÍNH - HIẾU

  • TRUNG: là không phản bội lại vua, lại nước, lại dân.
  • KÍNH: là biết tôn trọng các bậc thầy đã dạy để hướng dẫn con nên người.
  • HIẾU: là biết nhớ ơn và đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ quốc.

Ngũ Thường: NHÂN, LỄ, NGHĨA, TRÍ, TÍN

  • NHÂN: là lòng thương người, thương vật
  • NGHĨA: là lòng đối xử đền ơn đáp nghĩa với người, với vật.
  • LỄ: là sự thể hiện tôn nghiêm, thật sự trong ý nghĩ, lời nói và hành động.
  • TÍN: là không lường gạt, dối gạt, phỉnh gạt lẫn nhau.
  • TRÍ: là biết xét đoán điều đúng, điều sai.

Tam Tòng: TÒNG PHỤ - TÒNG PHU - TÒNG TỬ

  • TẠI GIA TÒNG PHỤ: ở nhà theo cha.
  • XUẤT GIÁ TÒNG PHU: xuất giá theo chồng.
  • PHU TỬ TÒNG TỬ: chồng chết theo con.

Tứ Ðức: CÔNG - DUNG - NGÔN - HẠNH

  • CÔNG: chăm làm.
  • DUNG: gọn gàng, sạch sẽ thân thể.
  • NGÔN: đoan chánh, trang nghiêm trong lời nói.
  • HẠNH: ngay thẳng, nghiêm chỉnh trong việc làm.

Các điều dạy này giúp các con tập sự thực hành theo nhân đạo cho có căn bản, rồi theo đà đó các con phát triển, tiến hóa thêm lên để hiệp nhứt với CHA, tức Ðại Hồn Vũ Trụ.

Các con tập sự TRUNG với vua tức thiên tử. Thiên tử còn có nghĩa là con Trời. Trời là Cha, tức Ðại Hồn Vũ trụ, là Ðại Thiên Ðịa. Con Trời là con Ðại Hồn Vũ Trụ, tức là Tiểu hồn chúng con đó. Từ chỗ TRUNG với CHA ở bên ngoài, con quay trở lại con TRUNG với chính con. Vì chính con mới là Thiên tử (con Trời) là vua cai quản Tiểu Thiên Ðịa, tức bản thể của con!

Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ: tức là con cải sửa những điều sai lầm về thân mạng (không sát sanh, trộm cắp, tà dâm...) công phu luyện đạo để giúp cho căn nhà bản thể, tức Tâm Linh gia được điều hòa trong sạch. Ðó là tề gia trong Tiểu Thiên Ðịa, chế ngự lục căn lục trần, thất tình chẳng khởi đắm, lục dục chẳng thâm nhiễm, không cho chúng nổi lên làm loạn, khảo đảo con, tức trị Quốc. Con có kềm chế dân trong nước con cai trị, dìu dắt hướng dẫn nó (lục căn, lục trần, thất tình, lục dục...) đi lên cõi sáng tức là con đã đưa nước con từ loạn quốc sang An Lạc Quốc, tức Xá Vệ Quốc vậy.

Khi dân trong nước con đã trị được rồi, thời con phải tiến lên giai đoạn độ hết tất cả chúng sanh trong Tiểu thiên lục địa: Tham, Sân, Si, Hỷ, Nộ, Ái ,Ố, Dục, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biện kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Tà kiến, Sát, Ðạo, Dâm, Vọng ngữ, Ý ngữ, Lưỡng thiệt, Ác khẩu, Hà Tiện, Ghen ghét, Lười biếng, Ðố kỵ, Tỵ hiềm, Phân biệt, Chia rẽ... để chúng nó được sáng suốt, an lạc như con, giúp con mau tiến hóa về hiệp nhứt với Thượng Ðế, tức Chơn lý Tối thượng vậy.

Từ chỗ thực tập ngũ thường, trong nhân đạo đã quen, đã có căn bản, con phải thăng tiến nó lên. Từ tình thương cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, bà con thân tộc, đến tình thương giữa người với người, cho đến giữa người và vật, thành tình thương vô cùng tận, thương hết thảy chúng sanh, không phân biệt thấp, cao, đẹp, xấu, giàu, nghèo, sang, hèn, ngu, trí, thanh, trược, loài vô tình, loài hữu tình ở cõi hữu vi lẫn cõi vô vi... tức là tình thương của Thượng Ðế vậy.

Tương tự như thế, các con phát triển Nghĩa, Lễ, Trí, Tín cho đến vô cùng tận.

Từ chỗ tập sự Tứ Ðức trong Ðạo Nhân, con tiến sang giai đoạn thực hiện Tứ Ðức theo Thiên đạo. Ở nhà theo CHA, nghĩa là các con đều ở trong căn nhà Ðại Bản Thể của CHA, phải theo CHA, tức nghe lời CHA khuyên bảo, là siêng năng tu tiến, để kịp dự kỳ Ðại Hội Long Hoa. Xuất giá tòng phu, hay ra khỏi nhà theo chồng, chồng con là ai? Các con biết không? Người chồng thực sự của con chính là Hồn, còn vợ là Vía. Các con phải cố gắng tìm cho được người chồng (hoặc vợ) bằng cách công phu luyện đạo cho âm dương hiệp nhứt, hồn vía tương hội, để hai phần này không còn xa nhau nữa, khiến các con quay ra tìm kiếm bên ngoài, lăn lộn trong bể sanh tử, luân hồi, đau thương, khổ não. Chồng chết theo con có nghĩa là: sau khi âm dương hiệp nhứt, dục vọng kiểu trược trần tiêu mất, ý niệm vợ chồng đã chết hẵn trong tâm thức của con người. Giờ đây, con phải xuống trần gian để dìu dắt các con của con, những tiểu hồn còn khờ dại đắm nhiễm mê trần, vươn lên tu tiến đặng trở thành như con vậy.

Từ chỗ chăm làm (công) những việc theo kiểu trần. Giờ đây các con phát triển thành các công việc làm theo đạo giải thoát, tức tinh tấn tu học, tu hành.

Từ chỗ ham mê trau chuốt, tô điểm cho sắc đẹp thân thể, các con tiến sang tô bồi cho sắc đẹp tinh thần tức thực hiện tình thương bằng các việc thiện lành cao cả.

Từ chỗ nói (ngôn) những lời thật thà ngay thẳng mang lại sự hòa ái cho mọi người, con tiến sang nói những lời mặc khải, huyền diệu, để khai tâm mở trí cho mọi chúng sanh thức tỉnh tu học đạo.

Từ chỗ làm việc thiện lành nhỏ, đoan chính trang nghiêm, các con phải phát triển thành những việc làm vĩ đại, thuyết giảng đạo lý thống nhất nầy cho quần sanh nghe theo đặng tu học cho kịp ứng thi chung kết của Ðại Hội Long Hoa kỳ Ba, tức cơ phán xét sau cùng.

Ðể tiến hóa kịp đà tiến hóa của Càn Khôn, các con không bỏ đạo Khổng, mà phải thăng hoa phát triển các điều dạy của Khổng thành vô cùng tận, để trở về hiệp nhứt với Thượng Ðế.

Còn LÃO TỬ thời dạy lý huyền cơ, lẽ bí nhiệm, tức sự vận chuyển của bộ máy âm dương trời đất theo DỊCH LÝ CÀN KHÔN.

Dịch lý âm dương tuy đơn giản, nhưng rất thâm diệu cao siêu. Theo dịch lý: Vô Cực sinh Thái Cực, Thái Cực phân hai thành Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi biến thành Tứ Tượng, Tứ Tượng hóa thành Bát Quái, rồi phân tán ra vạn thù. Xong lại trở về MỘT tức Thái Cực, Thái Cực lại hoàn Hư, tức Vô Cực. Vô cực là thể vô hình, vô tướng, không sinh, không diệt, hằng hữu đời đời.

LÝ VÔ CỰC là TỐI CỰC LÝ. Muốn hòa vào Hư không vô cực tính, các con phải theo đúng lời dạy của Lão là lý Vô Vi, tức vô Cầu, vô Tranh, vô Ðoạt, vô Chấp.

  • VÔ CẦU: giúp các con vô vọng, tức xa lìa vọng tưởng điên đảo.
  • VÔ TRANH: giúp các con vô bại, tức lìa xa ý tưởng hơn thua, cao, thấp.
  • VÔ ÐOẠT: giúp các con vô thủ, tức lìa xa ý niệm còn mất, có không.
  • VÔ CHẤP: giúp các con vô ngại, tức xa lìa tư tưởng trược thanh, thường ngã.

Lý vô vi hết sức huyền diệu, cao viễn, nên rất ít ai hiểu nổi, thành ra dễ bị thất truyền. "Vô vi tức Ðạo, Ðạo thường vô vi, nhi vô bất vi". Không làm tức Ðạo. Ðạo thường không làm, nhưng không gì không làm! Từ chỗ không làm mà Ðạo làm ra tất cả, làm ra tất cả mà như không làm gì cả. Ðây là bí quyết của Ðạo mà các con phải thâm cứu để làm.

Thực hiện theo DỊCH LÝ, tức con phải luyện KIM ĐƠN để gom TINH – KHÍ - THẦN về một, tức Thái cực, rồi Thái Cực các con phải nhanh luyện tiếp để xả hết đặng hòa vào Hư Không tức Vô Cực.

Luyện KIM ĐƠN tức luyện Tánh (chứ không phải luyện thuốc như trong truyện Tàu thường nói), luyện cho được tánh KIM CANG BẤT HOẠI, gặp động không loạn, gặp tịnh không lặng, vào trần không nhiễm, nhập Niết Bàn không diệt, định mà không chết cứng, đi đứng nằm ngồi mà như không đi đứng nằm ngồi. Thuyết giảng Ðạo pháp mà như không thuyết giảng Ðạo... tức là các con đã nhập thể được LÝ VÔ VI vậy.

Muốn luyện được tánh Kim Cang bất hoại các con phải luyện cả hai cùng một lúc, tức "tánh mạng song luyện" còn gọi là "TU TÁNH LUYỆN MẠNG", theo nguyên lý phản hồi.

  • Nếu TÂM định, Ý tịnh, Trí toàn thời TINH TRONG, KHÍ THANH, THẦN SÁNG.
  • Còn TÂM dịch, Ý động, TRÍ phân thì TINH đục, KHÍ trọc,THẦN mờ.

Bởi thế, muốn luyện MẠNG cho mau kết quả, con phải Nhíp Tâm, Định Trí, Gìn Ý, Bế Ngũ Quan, siêng năng tinh tấn, công phu luyện Ðạo, hành pháp luân cho lâu, Thiền định cho tốt. Ðiều này làm cho TINH TRONG, KHÍ THANH, THẦN SÁNG, giúp con khỏe mạnh, cả thể xác lẫn tinh thần, mau tiến về cõi sáng.

Ðó là phần NỘI LUYỆN, còn phần NGOẠI CHẾ tức TU TÁNH, là ngăn ngừa sự xâm nhập của trần cảnh, quyến rủ con trôi lặn trong vòng sanh tử, bằng TAM TỤ TỊNH GIỚI, tức là GIỚI, ÐỊNH, HUỆ.

  • GIỚI: đừng phát khởi các tâm niệm ác, nói các điều ác, làm các việc ác; thường phát khởi các tâm niệm thiện, nói các điều thiện, làm các việc thiện.
  • ÐỊNH: không để tâm ý buông lung theo ngoại cảnh: tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố, dục... theo trần cảnh.
  • HUỆ: thường quán tưởng các điều dạy của Phật, Chúa, Lão và CHA, để mở trí sáng suốt.

Về phần giáo lý của PHẬT quá nhiều, các con khó mà nghiên cứu tham học hết được. Ba tạng kinh điển bao gồm cả vạn quyển, đó là chưa kể thất lạc, thiếu sót, được phân tán trong mười tông phái (từ Thiền tông đến Tịnh Ðộ tông).

Trong mười tông phái này có bốn tông căn bản còn hoạt động là: Thiền tông, Luật tông, Duy Thức tông, Tịnh Ðộ tông.

  • TỊNH ÐỘ TÔNG: chủ trương tu Phước, tức niệm Lục Tự A DI ÐÀ.
  • DUY THỨC TÔNG: còn gọi là Pháp Tướng tông, chủ trương tu Huệ.
  • LUẬT TÔNG: nặng về giới luật.
  • THIỀN TÔNG: chủ trương tham cứu thẳng, tức trực chỉ thiền đốn ngộ chơn tâm kiến tánh thành Phật.

Tuy phân chia thành mười tông, nhưng thật sự trong mỗi tông chịu ảnh hưởng phương pháp tu của các tông khác.

Phần đông các con còn mê chấp, cho rằng ba tạng kinh điển của Phật là Thiên kinh vạn quyển ở bên ngoài các con. Chứ thực sự, các con đâu có ngờ rằng nó có ngay trong Tiểu hồn các con, mà xưa kia Phật chỉ mật truyền cho các đệ tử tiến hóa cao của Ngài mà thôi.

Thực ra, ba tạng kinh điển này vừa ở ngoài các con mà cũng vừa ở bên trong các con.

Ở bên ngoài các con là ba tạng: KINH, LUẬN, LUẬT; còn bên trong các con là: TẠNG TÂM, TẠNG TRÍ, TẠNG Ý. Phật là bậc Ðại Giác nên ba tạng kinh của Ngài rất lớn. Còn các con đang tu hành nên ba tạng của các con nhỏ hơn. Giờ đây, các con tinh tấn tu hành để phát triển cho bằng ba tạng kinh của Phật.

  • KINH là tạng TÂM của PHẬT, tức thể BI của Càn Khôn.
  • LUẬN là tạng TRÍ của PHẬT, tức thể TRÍ của Càn Khôn.
  • LUẬT là tạng Ý của Phật, tức thể DŨNG của Càn Khôn.

Các con bên Phật giáo, lâu nay cứ ngờ rằng, học hết ba tạng kinh điển, tức thu nhận được chân truyền y bát của Phật, chứ các con đâu có ngờ rằng, đó chỉ là lớp vỏ hình thức ở ngoài. Xưa, Tỳ kheo Thiên Tinh giảng hết ba tạng kinh điển mà bị đọa địa ngục, A Nan nhớ hết ba tạng kinh điển mà vẫn bị nạn Ma đăng già, đến nỗi khi được Phật cứu, bị Phật quở trách: "Ông chỉ mạnh nhớ, nghe nhiều chứ không tu".

Huống chi ngày nay, các con lem nhem vài ba chục quyển kinh đã cho là hiểu Phật, thông pháp?

Muốn học thuộc ba tạng kinh điển đó, các con phải thường xuyên công phu, công quả, công trình.

  • CÔNG PHU: Tức siêng năng hành pháp luân thường chuyển vào giờ tý mỗi đêm, để thâu rút thanh khí điển của trời đất vào thanh lọc bản thể, quy tam bửu, hiệp ngũ khí, quy tam thức, hiệp ngũ quan cho bản thể thanh tịnh, tâm ý không không, sớm mở được huệ trí, đặng rút ngắn con đường trở về nguồn cội, thấy được bản thể diện mục, tức Chánh Pháp Nhãn Tạng Niết Bàn, diệu tâm, thực tướng, vô tướng mà Phật đã nhủ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp sau khi cầm một nhánh hoa đưa qua đưa lại trước 3000 môn đệ và đồ chúng tại núi Linh Thứu khi mở Hội Pháp Hoa. Từ Ma Ha Ca Diếp truyền cho đến Tổ thứ 28 là Bồ Ðề Ðạt Ma bên Ấn Ðộ. Sau Ðạt Ma sang Trung Hoa truyền cho năm vị Tổ kế tiếp cho đến Huệ Năng thời phát triển rực rỡ, tạo nên Tôn phái trực chỉ Thiền Đốn Ngộ chơn tâm kiến tánh thành Phật.
  • CÔNG QUẢ: là thực hiện tình thương, giữ gìn giới luật, dìu dắt những đứa con mê lầm, đắm nhiễm, vào Ðạo tu học, tu hành sớm thoát khỏi cõi đời trầm luân khổ ách.
  • CÔNG TRÌNH: là phát triển ý chí cứu khổ, đóng góp vào cơ chuyển pháp, dẫn dắt chúng sanh vào cơ tái tạo, tức Ngươn Thánh Ðức, bằng in thêm Kinh của CHA và của các vị Giáo chủ các Tôn Giáo để phổ truyền trong quần chúng, càng ngày càng sâu rộng, việc làm này vừa giúp các con tiến hóa, hòa đồng tu học, hòa đồng chung sống cho kịp kỳ ứng thí Long Hoa.

Nhân bàn về kinh, CHA giảng thêm để các con rõ các loại kinh đặng mà tu học cho khỏi nhầm lẫn. Kinh có ba loại: kinh điển, kinh sách và kinh truyện.

  • KINH ÐIỂN: là các lời giảng của các vị đắc đạo, tự sáng tác được kinh. Chỉ các con tu cao, có điển mới hiểu nổi, như kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Duy Ma Cật... của Thích Ca trước kia, hay Kinh A Di Ðà của Tư Ðỗ Thuần Hậu ngày nay. Kinh loại này giảng bằng mật điển nên người phàm khó mà hiểu.
  • KINH SÁCH: là những lời bàn, những lời sám hối do các linh hồn tiến hóa cao soạn ra, để giúp các con chưa thức tỉnh hoặc ở trình độ thấp tu hành như Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Thiền Luận của Suzuki, Phật học phổ thông ở các nước, Tứ thư Ngũ kinh của Khổng, sách Yoga...
  • KINH TRUYỆN: là những lời kể được ghi thành truyện, mang ý nghĩa đạo lý tu hành. Ða số các kinh này đều do các vị Bồ Tát hoặc Ðại Tiên ẩn thân xuống thế soạn ra cho chúng sanh, vừa giải buồn, vừa chiêm nghiệm ý nghĩa sâu xa như truyện Quan Âm Thị Kính, Tây Du diễn nghĩa, Phong Thần.

Truyện Quan Âm Thị Kính: là một bài học giúp các con tiến hóa cao mở hạnh Bồ Tát, cứu khổ ban vui cho chúng sanh, y như hạnh nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát.

Quan Thế Âm Bồ Tát có hai đệ tử là Thiện Tài và Huệ Ngạn có thật trong Càn Khôn. Ðây là lực Bi của Càn Khôn thường cứu độ chúng sanh, đưa chúng sanh từ mê lầm sang thức giác tu tiến đồng thời cũng có trong các con.

Các con có hai đứa đệ tử như Bồ Tát Quan Thế Âm, nhưng các con chưa biết dạy dỗ điều khiển chúng theo ý con được.

Một đứa tên Thiện Tài, có nghĩa là giỏi làm việc lành để cứu khổ cho chúng sanh (Thiện là việc lành, Tài là giỏi).

Ðứa kia tên Huệ Ngạn, có nghĩa là dìu dắt chúng sanh sang bờ giác (Huệ là trí tuệ siêu việt, Ngạn là bờ).

Giờ đây hiểu rồi, các con vươn lên làm chủ bản thể, điều khiển hai đứa đệ tử này siêng năng cứu độ chúng sanh trong bản thể cho chúng khỏi khổ não bởi sự lôi cuốn của cảnh trần và kéo chúng lên cõi sáng suốt đi con.

Khi chúng sanh trong bản thể (lục căn, lục trần) đã hết khổ, đã sáng suốt rồi các con quay trở ra cứu khổ ban vui, dìu dắt chúng sanh ngoài bản thể, tức các Tiểu hồn còn ngu si mê chấp, có ý thức vươn lên, nắm quyền cai trị lại lục căn, lục trần, đừng để nó lôi kéo vào vòng luân hồi sanh tử nữa. Thế rồi cứ tiếp độ cho nhau thành một lực lượng hùng hậu. Bởi vì mỗi tiểu hồn tiến hóa cao, đều có khả năng mở hạnh nguyện trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát, để đóng góp lực Bi của Càn Khôn ngày càng lớn mạnh.

Còn truyện Phong Thần: diễn tả lịch sử thời xa xưa, nhưng có thật chứ không phải viễn tưởng như các con nghĩ đâu. Nó diễn tả sự đấu phép giữa các lực trược và thanh của Càn Khôn. Cuối cùng, khối trược bị khối thanh đè bẹp và được dìu dắt tiến hóa đi lên. Các vị đó ngày nay đã nhận lãnh các chức vị CHA ban để phụng sự cho cơ tiến hóa của Càn Khôn như: Thái Thượng Lão Tổ, Ngươn Thỉ Thiên Tôn, Thông Thiên Giáo Chủ, các con nào chưa đọc nên tìm đọc, đọc rồi nên đọc lại để nhớ lại mà nghiền ngẫm tu hành.

Ðặc sắc nhất là bộ Tây Du Diễn Nghĩa, tức truyện Tề Thiên Ðại Thánh, được CHA cho phép xuất bản xuống thế gian để độ các linh hồn lười biếng học đạo, chỉ ham mê tiểu thuyết. Ðây là bộ truyện mà hầu như khắp thế giới, từ trẻ đến già, từ trai chí gái đều được biết đến, qua truyện bằng tranh, bằng chữ. Ðến nỗi được dựng thành phim để giải trí cho quần chúng sau những giờ mỏi mệt trong công việc.

Ðây là một quyển kinh được một vị Tiên ẩn thân xuống thế sống như người trần sáng tác bằng một thể tài tuyệt diệu gọi là truyện, truyện này diễn tả cuộc hành trình dài đăng đẳng về phía tây phương của bốn thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh của Phật về độ chúng sanh tu hành. Cha sẽ lý giải để cho con hiểu rõ mà đối chiếu qua tiểu hồn con để tu hành.

Tam Tạng đi thỉnh kinh (Kinh này là Vô Tự Chơn Kinh) có nghĩa là đem ba tạng: TÂM TRÍ Ý để cầu Phật tánh tức Vô Tự Chơn Kinh. Ðường Tăng tượng trưng cho TÂM các con, Tôn Ngộ Không (Tề Thiên) tượng trưng cho TRÍ các con, Sa Tăng tượng trưng cho Ý các con, Bát Giới tượng trưng cho ngũ quan các con, con ngựa Tam Tạng cỡi tượng trưng cho xác thân tứ đại của các con.

Trong quá trình đi thỉnh kinh ấy, các con thấy rằng Tề Thiên qua lại xứ Phật hoài mà chưa giải thoát, mà phải qua hết thảy bốn thầy trò và cả con ngựa nữa. Cầu được kinh rồi, mở ra toàn là giấy trắng, tức là Vô Tự Chơn Kinh tượng trưng cho chơn lý tối thượng không thể nghĩ bàn! Sau khi cầu được kinh rồi, tượng trưng cho sự đắc quả, bốn thầy trò bỏ xác phàm trôi theo giòng sông, còn lại phần chơn thần (tức Phật tánh) bay về quê xưa chốn cũ trong nháy mắt.

Trong quá trình ấy, các con thấy Bát Giới ham ăn, ham uống, ham ngủ, ham rượu ngon, gái đẹp... tượng trưng cho ngũ quan của các con tham đắm trần cảnh, ham mê ngũ dục. Sa Tăng thì không đủ sức khuyên nhủ Bát Giới bớt nhiễm đắm trần cảnh, để phụng sự tốt cho cuộc thỉnh kinh, đến nỗi để cho Bát Giới muốn làm sao thì làm, tượng trưng cho sức yếu hèn. Ý thức của các con không đủ ý chí để điều khiển ngũ quan. Tề Thiên thì lăng xăng xông xáo, hoạt động không ngừng, tượng trưng cho sự suy nghĩ lung tung trong trí các con. Tam Tạng thì hễ một chút là niệm "Cẩn Cô" làm cho Tề Thiên nhứt đầu muốn chết, rồi lại niệm "Tòng Cô" cho khỏi nhứt đầu, tượng trưng cho Tà niệm và Chánh niệm trong tâm thức các con.

Tâm chánh niệm (niệm Tòng Cô) an trụ, thời trí con được thảnh thơi, an lạc. Tâm tà niệm (niệm Cẩn Cô) nổi lên, làm cho trí con đau khổ vì vọng cầu vọng tưởng.

CHA lý giải những điều căn bản và cần thiết mà thôi. Con nào muốn hiểu sâu xa hơn, thời tìm đọc lại bộ Tây Du Ký để nghiền ngẫm tu hành.

Nhân nói về ba tạng: TÂM-TRÍ-Ý, CHA nhắc lại các con bên cấp Phật nhớ rằng không phải chỉ thờ kính Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng mà các con được giải thoát đâu nghe con!

Tôn kính Tam bảo có hai cách:

  • Thờ lạy tượng cốt, cúng dường in kinh, cúng dường Tăng chúng, là giai đoạn tập sự cho những con người mới từ đạo Nhân tiến qua, để rèn luyện lòng trang nghiêm, bụng rộng rãi, dạ thoát trần. Ðây chỉ là hình thức hữu vi bên ngoài. Muốn thực sự cúng dường Tam bảo, các con phải thực hiện theo cách vô vi thứ hai, thì mới mong sớm được giải thoát.
  • Thờ Phật-Pháp-Tăng chính là thờ TÂM-TRÍ-Ý của các con đó! Vì Tâm con mới là hạt giống Phật, Trí con là hạt giống Pháp, Ý con là hạt giống Tăng. Nếu con thức tỉnh tu hành, có ý thoát ra khỏi sự ràng buộc của bể luân hồi sinh tử, thời con phải siêng năng tinh tấn, công phu luyện đạo, để mở trí thực hiện tình thương không biết mệt mỏi, để khai tâm dìu dắt, hướng dẫn anh em đồng đạo cùng nhau tu tiến, để luyện ý. Nói chung các con phải phát triển BI-TRÍ- DŨNG cho đến vô cùng tận, đừng để chúng dậm chân tại chỗ làm trì trệ sự tiến hóa của linh hồn con trong cuộc thi nước rút dự kỳ chung kết Ðại Hội Long Hoa kỳ Ba đã mở màn tại thế gian.

Còn bên THIÊN CHÚA GIÁO,Ðức CHÚA CON theo lệnh CHA thị hiện xuống trần, vừa sống như người trần gian, vừa sống một cách siêu nhiên, thuyết giảng đạo lý mặc khải, và làm các phép lạ nhiệm mầu để làm gương cho các con noi theo tu học, đặng biết ăn năn sám hối, bỏ ác làm lành, tránh vi phạm bảy mối tội đầu và mười điều răn của Chúa:

  • Bảy mối tội đầu:

1- Kiêu ngạo

2- Hà tiện

3- Dâm dục

4- Hờn giận

5- Ham ăn uống

6- Ghen ghét

7- Lười biếng

  • Mười điều răn:

1- Thờ kính Ðức Chúa Trời trên hết

2- Tôn kính danh Chúa, nhân danh Chúa, mà thờ nguyện, tin và làm theo lời Chúa dạy

3- Thánh hóa ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc

4- Thảo kính cha mẹ

5- Giữ gìn thân mạng của ta và của người khác

6-9- Trong sạch tư tưởng, lời nói và việc làm

8- Tôn trọng sự thật và danh giá của kẻ khác

7-10- Công bằng và tôn trọng của cải của người khác

Y theo các lời dạy này mà sống, tức là con đã tạo cho mình có căn bản để phát triển ba điều cần thiết: Bác ái, Minh triết và Ý chí; ba điều nầy tương tự như Bi-Trí-Dũng bên Phật giáo.

  • BÁC ÁI: là biết thương yêu mọi người, mọi vật, ban bố tình thương cho nhau, nếu đợi tình thương Chúa ban tức các con chẳng hiểu ý nguyện của Chúa như thế nào cả.
  • MINH TRIẾT: là sáng suốt vô cùng, các con phải nghiên cứu tu học, nghiền ngẫm các lời dạy mặc khải trong kinh Phúc Âm để mở trí thông minh, khai tâm đạo đức, tiến hóa nhanh trên đường đạo.
  • Ý CHÍ: là thể hiện đức tin không biết mệt mỏi, không rời bỏ Chúa, xa lìa Ðạo, vấp ngã trên đường tu.

Chúa xuống thế thu nhận mười hai môn đệ, làm phép lạ đi trên mặt nước. Một con cá, năm cái bánh mà 3000 người ăn không hết, còn thừa hai thúng. Cứu người chết sống lại, chết trên Thánh giá, sau ba ngày sống lại và còn nhiều phép lạ khác nữa mà CHA không thể kể ra hết được.

Các phép lạ nầy mang tính chất mặc khải, mượn hình thức hữu vi để ẩn chứa nghĩa lý vô vi mà chỉ có các bậc đắc quả Thánh mới hiểu nỗi, chớ người phàm khó mà hiểu được.

Hôm nay, Thượng Ðế dùng thần Huệ để thiên khải các điều mặc khải này cho các tiểu hồn, con Ngài, phản chiếu qua Tiểu Thiên Ðịa để tinh tấn tu học, tu hành.

  • Tại sao Chúa chỉ nhận mười hai môn đồ thôi con? Mà không nhận thêm hoặc bớt đi con? Thực ra, điều này Thiên Chúa đã định đoạt sắp xếp trước khi đức Chúa con xuống thế mở đạo cứu đời.

Ðức Chúa con chính là tiểu hồn con đó, có phải CHA là Ðại Hồn chiết ra các tiểu hồn con, xuống thế để nếm, chứng nghiệm, hiểu biết cho đến vô cùng tận để rồi sau khi đắc đạo vô thượng thấy được "Tỷ thể Thiên Chúa" hay "Phật Tánh" cũng vậy, hầu trở về hiệp nhứt với Ðại Hồn Vũ Trụ.

Chúa có 12 đệ tử, tượng trưng cho 12 đệ tử trong con, tức là lục căn và lục trần. Có một đệ tử sau phản lại Chúa, để thực hiện cho các con coi chừng, một trong 12 đứa đệ tử của các con (lục căn lục trần) nó sẽ phản lại, nổi lên khảo đảo con, bắt con đắm chìm trần gian, đam mê trần cảnh, để trì trệ sự tiến hóa của con, ngăn chặn con đường trở về hiệp nhứt với Thiên Chúa, tức Ðại Hồn CHA đó vậy.

Nó phản lại và làm hại Chúa, nhưng rốt cũng vẫn thất bại, còn được Chúa ban hồng ân tha tội, nhưng nó xấu hổ quá nên tự tử chết mất. Ðiều này để các con thấy rằng nếu các con có ý chí vươn lên làm chủ được bọn lục căn lục trần trong bản thể, thì cuối cùng nó (lục căn lục trần) cũng thất bại đối với con thôi, nhưng con đừng để nó chết đi, mà phải dìu dắt nó đi lên cõi sáng bằng tam công tứ lượng.

  • Chúa đi trên mặt nước biển, là tượng trưng cho phép thần thông tự tại, thoát khỏi sự đắm chìm trong bể luân hồi sinh tử. Nếu bảo đi được trên mặt nước mà giải thoát, thời con vịt ngược nước và nhiều con vật khác đi được trên nước mà sao không giải thoát được phải không con?
  • Một con cá và năm cái bánh mà các môn đồ cùng 3000 người ăn không hết. Sau khi ăn xong thu lượm các miếng bánh vụn và xương cá dồn lại thành hai thúng, điều nầy mới nghe có vẻ khó tin phải không con?

Nếu khó tin thời CHA nói thêm rằng: chẳng những 3000 người thời đó mà hết cả nhân loại ngày nay, ăn cũng không hết luôn con. Nếu nói vậy mà các con cho CHA lộng ngôn, thời CHA cho các con biết, chẳng những cả thảy nhân loại ăn không hết mà hết thảy chúng sinh trong vũ trụ ăn cũng không hết.

Giờ đây, chắc các con cho CHA là một thằng đại lộng ngôn, đại ngã mạn, nói chuyện phi lý, một con cá và năm cái bánh mà hết thảy chúng sinh trong vũ trụ ăn không hết.

Nếu các con nghĩ thế, thời Cha sẽ nói hết lên đây một sự thật phi thường. Chẳng những chỉ có chúng sanh trong vũ trụ mà tất cả chúng sanh trong hằng hà sa số vũ trụ khắp cả Càn Khôn đã sinh ra, đang sinh ra và sẽ sinh ra ăn cũng không hết luôn con. Sau khi ăn xong thu nhặt lại vẫn còn hai thúng to tổ bố luôn con.

Một con cá tức tượng trưng cho ý thức trong tiểu hồn con, còn năm cái bánh tượng trưng cho năm giác quan: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân trong tiểu hồn các con.

Có phải các con đã dùng một con cá và năm cái bánh này để ăn, vô lượng kiếp đến giờ mà vẫn chưa đã thèm không con?

  • Con mắt: thời ăn hình, sắc, ham mê nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con ngoan, si mê cuồng loạn, sách vở khiêu dâm...
  • Lỗ tai: thời ăn âm thanh, thích nghe những lời nịnh hót, lời ca tiếng nhạc trong mê muội quay cuồng...
  • Mũi: thời ăn hương vị, mê các mùi thơm trần tục, dùng dầu thơm để xức lên cái thân ô uế bên ngoài...
  • Lưỡi: thời ăn mùi vị, thèm các món ngon vật lạ, nem công chả phụng, rượu nồng dê béo, cà phê, thuốc phiện, trà thơm...
  • Thân: thời ăn xúc vị, đắm mình trong dục vọng, nam nữ quần là áo, lượt, phấn son lòe loẹt...
  • Ý: thời ăn pháp vị, tham lam, bỏn xẻn, phân biệt, chia rẽ, mưu cầu hạnh phúc cá nhân mà quên đi sự đau khổ của đồng loại.

Sau khi ăn xong còn lại hai thúng: tượng trưng cho tâm thức và tri thức, còn gọi là tâm trí và lý trí của các con đó. Còn phải cái tâm vọng cầu, vọng tưởng và cái trí ngã mạn, tự tôn; đầy nhóc cả hai thúng đến nổi các vị Giáo chủ khuyên đem đổ hoài mà chẳng hết.

Những điều mà các con là khó tin, cho là đại lộng ngôn, đại ngã mạn, được Thượng Ðế thiên khải thành một sự thật rất khoa học, được che dấu cho đến Hạ Ngươn mạt pháp mới mở ra cho các con hiểu đặng tinh tấn tu hành.

  • Cứu người chết sống lại: tượng trưng cho sự đam mê trần gian, đắm nhiễm trần cảnh, chết theo dục vọng... sống mà quên đi bản thân của chính mình. Ðến khi Chúa xuống thế, thuyết giảng Ðạo lý cho các con tiếp xúc với giáo lý nhiệm mầu, làm cho các con thức tỉnh cơn mê trầm trọng, sinh động lên, tức sống lại nắm quyền điều khiển bản thể tu hành, chớ không còn mê chết theo dục vọng trần gian nữa (phàm sanh tâm, đạo tâm diệt).
  • Chúa chết trên Thánh giá: (phải chết trên Thánh giá mới được), sau ba ngày sống lại. Khi đó có hai tên tử tội cũng bị treo như Chúa, một đứa tin theo Chúa, còn đứa kia không tin Chúa mà còn thóa mạ Chúa, lăng nhục Chúa, chửi rủa Chúa để được tha khỏi chết như Chúa.

Thánh giá có hai thanh, thanh đứng tượng trưng cho Càn, thanh ngang tượng cho Khôn, Càn Khôn tượng trưng cho âm dương, Trời Ðất. Hai thanh giao nhau tượng trưng cho âm dương hiệp nhứt. Chúa chết trên Thánh giá: tượng trưng cho sự chết đi phần phàm ngã, sau khi âm dương đã hiệp nhứt trong tiểu hồn các con.

  • Sau ba ngày Chúa sống lại: là tượng trưng cho sự chết đi Trí, tức ba phàm Trí trong tiểu hồn các con (phàm Tâm, phàm Trí, phàm Ý). Các con hãy chết đi những ý niệm mơ hồ trong ý thức, chết đi những tư tưởng què quặt trong tri thức và chết đi những vọng cầu, vọng tưởng trong tâm thức thì con mới bừng lên sống lại hiệp nhứt với Chúa nghe con.

- Một đứa tin theo Chúa, tượng trưng cho chánh niệm, nên được chết theo Chúa, chết đây là chết phần phàm ngã để làm sống lại phần chơn ngã, thời mới được về cõi Thiên Ðàng hay Niết Bàn cũng vậy.

- Còn đứa kia không tin Chúamà còn khinh bỉ Chúa, nên được tha sống ở lại trần gian, tượng trưng cho tà niệm, nên bị luân hồi trở lại thế gian, trầm luân trong khổ đau để trả cho tròn cái nghiệp mê chấp, mê lầm không tin có Chúa, có Thượng Ðế, có chơn lý tối thượng. Chẳng chịu thức tỉnh tu hành, đặng sớm thoát khỏi luân hồi mà về cõi giải thoát.

Nhân tiện, lý giải về giáo lý của Chúa, CHA phân tích tại sao sau này, Thiên Chúa giáo lại mọc thêm một nhánh Ðạo là Ðạo Tin Lành để các con trong hai chi đạo này, khỏi phân biệt chia rẽ nhau nữa, mà sớm qui hiệp để tu hành cho kịp cơ phán xét cuối cùng.

Bởi vì có một số đáng kể các tín đồ bên Thiên Chúa còn kẹt trong hữu vi, lấy bụng ta mà suy ra bụng Chúa, mê chấp cho rằng Ðức Mẹ đồng trinh mà sao sanh ra được Chúa Giê-Su, điều nầy trái với khoa y học của thế giới hữu vi. Nhận xét này của một số lớn tu sĩ và tín đồ bên công giáo quả thật không sai, với trình độ hữu vi, nhưng các con đâu có biết rằng, đây là phép lạ vô vi không thể nghĩ bàn của Thiên Chúa.

Thượng Ðế sợ các con đó dùng trí phàm suy luận thấy vô lý rồi bỏ Ðạo, uổng công trình tu hành, nên CHA tiếp điển cho một vị Thánh đóng vai linh mục, thay đổi một số điều căn bản trong giáo lý cho phù hợp với trình độ hữu vi đặng lôi kéo một số lớn tu sĩ và tín đồ vào Ðạo tu hành.

Giờ đây, CHA thử hỏi các con, nếu Ðức Mẹ đồng trinh thời ai tu cho con tiến hóa đặng giải thoát khỏi ách trầm luân đau khổ? Còn nếu giá như Ðức Mẹ mất trinh, các con không chịu tu, thời các con có được tiến hóa hay không?

Thế nên, dù Ðức Mẹ đồng trinh hay mất trinh, thời cũng chính con (nếu muốn tu hành đặng sớm về cõi Thiên đàng giải thoát) phải tiến lên nghiên cứu tu học, và thực hiện tình thương theo lời Chúa dạy, đặng rút ngắn con đường trở về, kẻo không còn thời gian để tranh cãi về sự Ðức Mẹ đồng trinh hay mất trinh mà không kịp nữa nghe con.

CHA thấy đa số các con bên Thiên Chúa giáo, quá câu nệ vào việc đi nhà thờ xem lễ mà quên rằng: tự tu, tự tiến mới là cần thiết. Ði nhà thờ xem lễ, cũng cần thiết. Nhưng chỉ lúc đầu thôi, sau một thời gian lâu, làm quen với cảnh trang nghiêm của giáo đường, hiểu được giáo lý của Thiên Chúa, tin rằng giáo lý đó dẫn dắt các con đến chỗ thiện lành, sáng suốt và tự nhận thấy đã có căn bản vững vàng, thời nên tu ở nhà tốt hơn, các con chớ ngại rằng: như thế là trái với lời dạy của Thiên Chúa, phạm mười điều răn, mang tội với Chúa.

Các con ơi, tội hay không là do chính con tạo điều gì làm trì trệ sự tiến hóa của con mới là tội, chứ không phải bỏ đi nhà thờ là có tội nghe con! Các con dựa theo trình độ hữu vi xét như thế cũng phải, nhưng CHA sẽ dùng trình độ hữu vi để dẫn chứng cho các con hiểu rõ vấn đề nầy hơn.

Con hãy hình dung, khi có một đứa em con ra đời, lớn dần khoảng bốn tuổi là cắp sách đến trường, chập chững bước vào con đường học vấn. Ðầu tiên đứa bé vào lớp mẫu giáo tập sự học hành, rồi lần lượt tiến sang lớp 1, 2..., để nhường lại chỗ cho những đứa em của nó ra đời sau vào học, nếu nó cứ ngồi ỳ chỗ đó mãi tức là tự nó đã trì trệ sự tiến hóa của nó, mà còn choáng chỗ làm cản trở sự học cho những đứa em ra đời sau nó nữa.

CHA mượn sự nầy để ví dụ cho các con thấy rằng: nếu con cứ đi nhà thờ suốt cả cuộc đời con tức là con tự làm trì trệ sự tiến hóa của con và còn choáng chỗ, làm cho những đứa em của con không có chỗ vào học.

Cũng như bên Phật giáo, đi lễ nhà thờ (hoặc đi chùa) là hình thức hữu vi tạm thời, tập sự cho con thờ kính Phật, Chúa bên ngoài. Làm phép rửa tội và tập tễnh ê a kinh Phúc âm của Chúa (hoặc kinh A-Di-Ðà), đấy là hình thức khởi đầu dìu dắt các con từ Nhân đạo bước sang Thánh đạo, Phật đạo vậy.

Muốn thật sự thờ kính Chúa ba ngôi, con phải quay trở lại soi vào linh hồn các con:

  • Ngôi MỘT: là sự minh triết tức là lý trí sáng suốt của con (TRÍ)
  • Ngôi HAI: sự thực hiện tình thương, tức tâm trí bác ái của con (BI)
  • Ngôi BA: là ý chí cứu khổ, tức ý chí tin tưởng chứng ngộ chơn ý để hoằng dương chánh pháp (DŨNG)

Ba ngôi nầy, vừa thật có ở ngoài, lại vừa có trong linh hồn các con, tương đương với BI-TRÍ-DŨNG bên Phật giáo.

  • Tinh tấn tu học để phát triển sự minh triết trong con cho đến vô cùng tận tức là kính thờ Ðức Chúa Cha một cách sáng suốt.
  • Thực hiện tình thương không biết chán nản, là kính thờ Ðức Chúa Con một cách thiện lành.
  • Có đức tin không biết mệt mỏi, là kính thờ đức Chúa, Thánh, Thần một cách chân chính vậy.

Giờ đây, đã hiểu rồi, thời CHA khuyên các con nào đi nhà thờ đã lâu và tự thấy đủ sức tự tu tự tiến, các con ấy nên ở nhà để tu hành, đặng nhường chỗ trong nhà thờ lại cho những đứa em con trình độ thấp hơn con, ở lớp thua kém con tập sự vào thế chỗ con để tu học theo đúng luật TIẾN HÓA: trình độ cao, phải nhảy sang lớp cao, để nhường chỗ lại cho trình độ thấp, bước vào lớp thấp, mà tu tiến.

Nhân tiện, lý giải về giáo lý của Chúa, CHA khuyên các con không nên khinh thường các điều giảng có vẻ thiếu khoa học về vũ trụ nhân sinh trong kinh Phúc âm, bởi vì lúc nó cô lập trong sa mạc nhịn đói 40 ngày để thanh lọc bản thể hầu tiếp nhận nguồn ân điển của CHA, ra mở đạo cứu đời, CHA tiếp điển khuyên nó giảng thật thấp, chỉ tuyên bố rằng: Thượng Ðế giảng một lời, tức thời Càn Khôn Vũ Trụ hình thành, cho các con thời đó có ý niệm mà thôi, chứ giảng như ngày nay, thời các con hồi đó không hiểu nổi.

Ðiều này, bên Phật giáo cũng vậy, lúc Thích Ca mở Ðạo cứu đời, CHA cũng tiếp điển khuyên nó giảng sơ về đất, nước, lửa, gió... cho các con thời đó hiểu được đại cương về cơ cấu hình thành Càn Khôn để rồi đến cơ phán xét sau cùng, tức Ðại Hội Long Hoa kỳ ba này, Thượng Ðế đích thân xuống thế, thuyết giảng rõ ràng, mạch lạc trong TỨ ÐẠI PHÁP KINH phù hợp với trình độ tiến hóa của các con ngày nay vậy.

Thế nên, các con thấy rằng: các vị Giáo Chủ và CHA biết sử dụng lý trí trong minh triết vô lượng để thuyết giảng đạo lý cao thấp khác nhau, vào các thời kỳ khác nhau, ở các địa phương khác nhau, cho phù hợp với trình độ chúng sanh (quần chúng), dễ dàng trong việc tu học tu hành. Ðiều nầy giúp các con tiến hóa cao, có ý muốn cứu khổ quần sanh, hoằng dương chánh pháp, khi thuyết giảng đạo lý tu hành cho chúng sanh, thì phải tùy lúc mà thuyết, tùy nơi mà giảng, tùy người mà đáp, tùy việc mà làm... Biết sử dụng cái thấp cho trình độ thấp hiểu, chớ nên thị tài, khoe trí mình ra để lòe đời.

Rốt cùng, cái học hành của Khổng, cái lý hành của Lão, tu hành của Phật, thực hành của Chúa, cũng như hoạt động của các tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn giáo, Cao Ðài giáo, Hòa Hảo... cũng như của Hội Thông Thiên Học, các môn phái Yoga v.v... đều là thi hành theo Thiên ý của Thượng Ðế, phụng sự cho cơ tiến hóa, đóng vào mục tiêu tiến hóa đời đời để được hằng hữu đời đời cho Càn Khôn Vũ Trụ mà thôi.

Ðây là Giáo lý cũng như Pháp lý của các tôn giáo có được CHA lược giảng và thiên khải những điều cốt tủy căn bản cần thiết như sérum để tiêm thẳng vào sự mê chấp lâu nay của các con. Hay nói đúng hơn, đó là nước CAM LỒ dược thủy dùng để hóa giải đại mê, đại chấp, phân biệt chia rẽ, đố kỵ, tỵ hiềm, giữa các chi đạo tại trần gian.

Giờ đây, CHA sẽ khai tâm mở trí cho các con sáng suốt hơn về cách thức quy hiệp: tức quy tam hiệp ngũ, khai thông những bế tắc mà lâu nay trần gian mê muội, không tìm đâu ra lối thoát cho sự phân ly năm mối đạo này.

Quy tam hiệp ngũ có hai nghĩa:

  • Nghĩa thứ nhất của QUY TAM HIỆP NGŨquy tam giáo hiệp ngũ chi, tức đưa ba tôn giáo cổ Nho-Lão-Phật về một gốc thành "Càn Khôn Nhứt Thống Giáo". Gồm có năm chi đạo: Nhân đạo, Thần đạo, Thánh Ðạo, Tiên đạo, Phật đạo về một mối tức "Thiên Ðịa Quy Nguyên Đạo" bằng một giáo lý sáng suốt do CHA thuyết giảng gọi là "THƯỢNG ÐẾ HIỆP NHỨT LÝ"; đó là QUY TAM HIỆP NGŨ của Ðại Thiên Ðịa.
  • Nghĩa thứ hai của QUY TAM HIỆP NGŨquy Tam Bữu hiệp ngũ khí, để quy tam thức hiệp ngũ quan, tức là nhiếp Tâm, định Trí, gìn Ý, bế ngũ quan quay trở về bên trong bản thể, đặng dùng Pháp Luân thường chuyển đưa ngươn tinh thức, thủy thận về hỏa tâm để đốt ra khí điển. Khí điển này phối hợp với ngươn thần dần dần tạo thành THÁNH THAI XÁ LỢI. Thánh thai Xá lợi sẽ được nuôi lớn dần dần bằng cách gôm khí ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Thổ, Hỏa về trung ương để tinh luyện thành KIM CANG THẦN hầu giúp con về nơi siêu thoát. Ðây là Quy Tam Hiệp Ngũ trong tiểu thiên địa.

Ðại Thiên Ðịa từ tiểu thiên địa (Tiểu hồn) mà thành. Tiểu thiên địa do Ðại Thiên Ðịa mà ra. Muốn Quy Tam Hiệp Ngũ ngoài Ðại Thiên Ðịa, trước tiên phải Quy Tam Hiệp Ngũ trong tiểu thiên địa. Có quy mới về vì quy là về, không quy ắt không về được nghe con!

Dùng phương sách gì để Quy Tam Hiệp Ngũ ngoài Ðại Thiên Ðịa. Ðây, hãy nghe CHA giảng:

Làm thế nào để đưa ba tôn giáo cổ về một gốc, gồm năm chi đạo về một mối? Có lẽ chúng con nghĩ rằng, bỏ hết các tôn giáo cũ, để theo một tôn giáo của CHA là "CÀN KHÔN NHỨT THỐNG GIÁO" rồi nhập cuộc năm chi đạo thành một đạo là "THIÊN ĐỊA QUY NGUYÊN ĐẠO". Hỏng! hỏng! hỏng! Làm như thế thì trăm lần cũng hỏng, mà ngàn lần cũng hư.

Các con ơi, các con quá ngu dại, thành ra các con đâu có biết rằng: lâu nay các con đều nằm trong đạo của CHA, đang tu học tiến hóa theo từng cấp đạo của CHA, do các vị giáo chủ tức những phân thân điển quang của CHA xuống thế vào những thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau, mở dạy các cấp đạo với nhau, cho phù hợp với trình độ tiến hóa của tiểu hồn tu học tu hành, đặng trở về hiệp nhứt với Ngài.

Thế nên, bây giờ CHA cho các con rõ, cách quy hiệp của CHA là không quy hiệp gì cả con! Tất cả vẫn giữ lại y như cũ.

Có lẽ các con sững sốt khi nghe Thượng Ðế tuyên bố, một câu quá sức vô lý, QUY HIỆP MÀ KHÔNG QUY HIỆP thời làm sao đưa các tôn giáo, chi phái về một gốc, một mối được? Ðiều này CHA sẽ dẫn giải ra đây bằng cách hình tượng trong thế giới hữu vi, thời các con sẽ rõ. Các con hãy hình dung cách thức tổ chức giáo dục ở trần gian các con, theo thứ tự từ cấp 1, 2, 3 cho đến cấp đại học, cao học, rồi đến tiến sĩ, thạc sĩ.

Ðầu tiên, các con tập sự học hành ở lớp mẫu giáo, sau sang cấp một, rồi tiến dần đến cấp 2, 3, rồi đại học, cao học, tiến sĩ... Khi đến học vị tiến sĩ rồi, con cho rằng các cấp học ở dưới không còn cần nữa, bỏ hết đi, thời sự kiện gì sẽ xảy ra?

Dĩ nhiên, các con hiểu rằng làm như thế tức nền giáo dục của nhân loại sẽ sụp đổ tức khắc, trường ốc không còn mở nữa, thầy giáo không còn dạy nữa, con em các con ra đời sau sẽ đi vào ngu dốt, nền văn minh thụt lùi, rồi đi đến sụp đổ tức khắc: vì trí thức không còn tiếp truyền từ đời nọ sang đời kia.

Do đó, các con thấy rằng, sự cần thiết của lớp một, chẳng khác nào như lớp tiến sĩ vậy.

Thế nên CHA tuyên bố rằng "quy hiệp mà không quy hiệp" có ngĩa là các tôn giáo, đạo phái đều không được bỏ mà vẫn giữ lại y như cũ. Nếu bỏ đi một cấp đạo nào, như Nhân đạo chẳng hạn, thời dòng tiến hóa bị cắt đứt, Càn Khôn sẽ sụp đổ tan tành!

Các con cho rằng, Nhân đạo thấp quá không phù hợp với trình độ chúng con nữa, bỏ đi, dạy các con cấp đạo cao hơn, thời các tiểu hồn em con xuống sau lấy chi để học, đặng nếm, chứng nghiệm những gì mà các con đã nghe, đã thấy, đã biết, để làm căn bản lấy đà tiến sang các cấp đạo cao hơn.

Tư tưởng như vậy, sau khi đã tốt nghiệp các cấp đạo mà con đang theo học như Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo xong rồi bỏ đi, thời các cấp đạo đàn em con, lấy trường đâu mà học, bài đâu mà giảng cho nó nữa?

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh