Con Đường Của Người Đệ Tử: Chương 1. Những Bước Đầu Tiên

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ: CHƯƠNG 1. NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN

BÀI TỰA CỦA DỊCH GIẢ H. DEMIRGIAN

Từ Anh Văn ra Pháp văn.

Trong số những bài diễn văn rất nhiều và rất bổ ích mà thế gian đã thọ lãnh của bà Annie Besant nhờ năng lực vô biên và sự tận tâm tuyệt đối của bà trong sự hoàn thành cái nhiệm vụ cao cả mà vì đó bà đã hy sinh đời bà, có lẽ không có những bài nào đáng chú ý và có ích cho người học Đạo hơn là bốn bài thuyết trình tại Adyar năm 1895, nhân dịp lễ kỷ niệm năm thứ 20 của ngày thành lập Hội Thông Thiên Học và được gom lại thành một quyển sách với nhan đề là "CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ" (The Path of Discipleship).

Những bài thuyết pháp cao siêu này đã gây cho chúng tôi một sự xúc cảm sâu xa và lành mạnh khiến chúng tôi đã không ngần ngại dịch ra Pháp văn, hy vọng rằng một ngày kia sẽ in được ra thành sách để những đồng bào không quen đọc Anh văn có thể được hưởng thụ được những kho tàng quý báu vô giá chứa đựng trong những bài này.

Xin quý vị độc giả nhớ cho rằng những bài này được thuyết trình trước một cử tọa Ấn Độ.

Như vậy, người ta sẽ không thể ngạc nhiên về quan niệm mà bà Annie Besant tự chọn cũng như về những từ ngữ tiếng Phạn rải rác trong bài diễn văn.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)


BÀI TỰA

Của dịch giả Cao Thị Lan từ Pháp Văn ra Việt Văn

Cũng vì những lý lẽ mới kể ra trên đây và để giúp ích cho đồng bào, chư thiên tín không quen thuộc với Anh Văn và Pháp Văn, chúng tôi cố dịch quyển này ra Việt Văn. Xin độc giả thứ cho những câu dịch không được suông sẻ, đó chỉ tại Anh Văn và Pháp Văn có những điều và những biệt ngữ dịch ngay ra Việt Văn thì nghe rất chướng tai. Chúng tôi phải cố gắng châm chước thế nào cho:

1- Không mất ý nghĩa câu văn của diễn giả,

2- Mà cũng không mất cách hành văn của người Việt.

Cao Thi Lan


Con đường hành động- Phép tinh luyện

Thưa quý huynh,

Hai năm trước đây, cũng tại giảng đường này tôi đã xin quý huynh chú ý đến sự tạo lập Vũ trụ một cách khái quát, đến những giai đoạn tấn hóa của nó, và những phương pháp được áp dụng trong sự tiếp diễn đại quy mô của những hiện tượng. Năm ngoái, tôi đã thuyết trình về sự tiến hóa của Chơn linh, cái Chơn linh trong con người hơn là cái Chơn linh nơi Vũ trụ, và tôi đã cố gắng diễn giải cho quý huynh rõ Chơn linh đã thu góp kinh nghiệm như thế nào xuyên qua các thể của nó để rốt ráo làm chủ hoàn toàn được những thể thấp của mình(1). [i]Đối với con người cũng như đối với Vũ trụ, đối với cá nhân cũng như đối với càn khôn, mục đích chỉ có một: ấy là một sự cố gắng bền bỉ để hợp nhất với Chơn linh, tức phản bổn hoàn nguyên vậy. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta có nói với tôi, trong những cuộc thảo luận về những đề tài cao cả này rằng:

Cái đó có liên quan gì với kiếp sống của con người tại thế gian này, trong khi con người bị chia phối bởi những nhu cầu của đời sống hằng ngày, những náo động quay cuồng của hiện tượng giới làm cho con người không thể có một tư tưởng nào về Chơn linh, vì luôn luôn bị nghiệp quả lôi cuốn vào mọi nghành hoạt động của thế gian? Có một sự liên quan nào giữa giáo lý cao siêu với đời sống của con người, và do cách nào con người giữa thế gian này có thể tiến lên khá cao để thực hiện được một đời sống tinh thần siêu việt?” Năm nay tôi cố gắng giải đáp câu hỏi này.

Tôi sẽ ráng giải nghĩa cho quý huynh hiểu bằng cách nào một người ở thế gian này, bị bó buộc trong những phận sự gia đình, những bổn phận xã hội và vô số hoạt động của đời sống, có thể tự chuẩn bị cuộc đời tu hành và đặt những bước đầu tiên trên con đừng Đạo Duy Nhất Vô Thượng. Tôi sẽ ráng tả cùng quý huynh những sự tiến bộ phải thực hiện trên con đường này, tôi bắt đầu bằng đời sống của bất cứ một người nào đó, tôi đi từ cái vị trí của đa số quý huynh hiện giờ, như thế quý huynh có thể nhận định được rằng có một mục đích phải đạt cho được, có một con đường phải đi qua- con đường nầy có khởi điểm, nơi đây, ở trong đời sống gia đình, đời sống xã hội, quốc gia, và cái mục phiêu của nó ở một nơi xa xăm không ai tưởng tượng nổi; con đường nầy sau rốt sẽ dẫn người lữ khách đến nơi trú ngụ vĩnh viễn của y. Đó là mục đích của bốn buổi thuyết pháp này, đó là những nấc thang mà tôi chắc chắn rằng quý huynh sẽ vui lòng trèo lên với tôi.

Để hiểu rõ đề tài, chúng ta hãy xem xét một cách nhanh chóng quá trình của cơ tiến hóa, ý nghĩa và mục đích của nó để cho cái nhìn ngay thẳng về tổng quát khiến ta có thể thưởng thức được đề tài và hiểu được sự thích nghi của con đường thẳng tiến mà chúng ta sắp bước theo từng bước một.

Chúng ta nhận thức rằng cái Duy Nhất biểu lộ ra thiên hình vạn trạng. Chúng ta hãy nhìn lại dĩ vãng và xem những cõi u minh nguyên thủy bao trùm vạn vật; chúng ta sẽ nghe như một tiếng thì thầm từ những cõi u minh ấy vọng ra.”Ta sẽ tự sinh sôi nẩy nở”. Sự biểu lộ thành thiên hình vạn trạng ấy chính là sự tạo lập vũ trụ cùng những sinh vật sống trên đó. Trong cái ý chí tự sinh sôi nảy nở này, do “Đấng Độc Nhất Vô Nhị” biểu lộ ra, chúng ta trông thấy nguồn cội của mọi sự biểu hiện, và như thế chúng ta nhận biết được cái mầm nguyên thủy của Vũ Trụ Càn Khôn.

Và khi mà chúng ta hiểu rằng Vũ Trụ đã khởi nguyên bằng cách nào, khi mà chúng ta nhận định được cài phức tạp và cái hằng hà sa số nảy sinh từ cái đơn thuần và cái duy nhất nguyên thủy, chúng ta sẽ hiểu được rằng mỗi sự biểu lộ trong hiện tượng giới đều có tính cách bất toàn, và nội cái việc mà một hiện tượng chỉ có thể phát sinh với điều kiện bị giới hạn, cũng đủ là một bằng cớ hiển nhiên để chứng minh rằng cái hiện tượng ấy còn thấp kém hơn Đấng Duy Nhất và lẽ cố nhiên nó không được hoàn hảo. Điếu ấy làm cho ta hiểu lý do của biến tính và đặc tính hằng hà sa số người và vật. Lúc đó, chúng ta mới bắt đầu hiểu rằng sự hoàn thiện của Vũ trụ hữu hình là do chính ở cái sự biến dị ấy; rằng ở chỗ nào không những chỉ có Đấng Duy Nhất mà còn có cái gì thêm nữa, thì cái hằng hà sa số ấy là cần thiết để Đấng Duy Nhất cũng giống như một vầng Thái Dương mãnh liệt ban rải những ánh sáng huy hoàng ra mọi phía, có thể ban rải chúng khắp mọi nơi, và chính sự hoàn thiện và sự quang minh của thế gian ngự trị trong sự tổng hợp của tất cả những tia sáng ấy. Những sự vật càng nhiều, càng đẹp đẽ và càng khác nhau thì cái phản ảnh của Đấng Duy Nhất trong Vũ trụ của Ngài sinh ra càng rõ rệt, tuy rằng vẫn luôn luôn chưa được hoàn thiện.

Sự cố gắng đầu tiên của cơ tiến hóa - là tạo ra nhiều mạng sống riêng biệt- ít ra riêng biệt về bề ngoài- để khi nhìn từ ngoại cảnh, chúng nó có vẻ đông đúc, nhưng nếu nhận xét về tinh hoa của chúng thì chúng ta thấy rằng cái Chơn linh của mọi vật thì chỉ là Một. Khi chúng ta nhận định được điều nầy, chúng ta hiểu rằng trong khi nhập thế nhiều lần, cá nhân tự biểu lộ như là một phản ảnh chiếu yếu ớt và bất hoàn hảo của Chơn linh. Chúng ta cũng bắt đấu hiểu rằng Vũ trụ nầy sẽ đi đến đâu, tại sao sự tiến hóa của vô số cá nhân ấy lại cần thiết, tại sao sự chia rẽ khác biệt ấy lại đóng một vai trò khẩn yếu trong sự tiến hóa của toàn thể. Quả vậy, chúng ta hiểu rằng Vũ trụ nầy phải có mục đích đào tạo vị Thượng Đế của một Vũ trụ khác, những vị Đại Thiên Thần, hướng dẫn mọi quyền lực của Vũ trụ nấy, cùng các vị Thánh Sư có bổn phận giáo hóa nhân loại sơ sinh trên Vũ trụ mới đó. Tất cả những thế giới nấy đây, những sinh vật bây giờ đều theo một triều lưu tiến hóa vững chắc và bất biến, do đó mỗi Vũ trụ mới có thể chu cấp cho mỗi Vũ trụ tương lai vị Thượng Đế, các Thiên Thần, các vị Bàn Cổ Đầu Tiên, cùng tất cả các Đấng Cao Cả có oai lực cần thiết để xây dựng, cấu tạo, quản trị và giáo huấn cái Vũ trụ chưa nảy sanh đó.

Như thế, các Vũ trụ đều liên lạc với nhau, những Đại Kiếp ( Manvantara) nối tiếp nhau, những kết quả thâu nhập được ở Vũ trụ này sẽ dùng làm hạt giống cho Vũ trụ sinh sau. Ở trong đám hằng hà sa số ấy có một đơn vị rộng lớn hơn đang tiến hóa và để làm nồng cốt cho Vũ trụ sắp nẩy sanh, nó sẽ là cái Uy lực chưởng quản, cai trị của Vũ trụ tương lai.

Đến đây, một câu hỏi được nêu lên- tôi biết câu hỏi nấy sẽ làm bận trí nhiều khối óc, vì ở Đông phương cũng như ở Tây phương người ta đã bao lần hỏi tôi như thế - tại sao sự tiến hóa lại có nhiều khó khăn như vậy? Tại sao sự tạo tác lại để lại dấu vết của biết bao lần thất bại bề ngoài? Tại sao con người lại cư xử sái cách trước khi cư xử đúng đắn? Tại sao họ lại theo điều ác nó làm cho họ đê hèn thay vì tha thiết với điều thiện nó sẽ đưa họ lên cao? Vậy Đức Thượng Đế của Vũ trụ ta cùng các nhân viên của Ngài là các Thiên Thần cùng các vị Bàn Cổ cao cả đã giáng trần để dìu dắt những bước đầu tiên của nhân loại há lại không có phương thế nào để tránh cho công trình tạo tác khỏi bị những thất bại bề ngoài hay sao? Các Ngài há lại không có thể điều khiển thế giới cách nào để cho con đường đi được ngay hàng thẳng lối, thay vì xa xôi và cng queo như thế ru? Chúng ta đi đến một giai đoạn mà sự tiến hóa của nhân loại trở nên cực kỳ khó khăn, chỉ vì mục đích phải đạt cho được.

Thật rất dễ mà uốn nắn một nhân loại hoàn toàn và hướng dẫn những năng lực khởi sanh của nó về một phía làm cho nó đi mãi về nẻo thiện, không bao giờ để cho nó quay về phía ác. Nhưng một công nghiệp dễ dàng như vậy thì có cái đặc biệt gì? Chắc chắn là nó biến con người thành một cái máy tự động bị một sức mạnh bên ngoài thúc đẩy và nó bắt buộc con người phải tuân theo một luật lệ cưỡng áp, không sao thoát khỏi. Thế giới của khoáng chất phải chịu một định luật như vậy. Những sự tương quan kết hợp những nguyên tử đều phục tùng cái động lực thúc bách ấy. Nhưng khi chúng ta tiến hóa dần dần, chúng ta tuần tự thấy nảy nở ra một sự tự do càng ngày càng lớn hơn, cho đến khi chúng ta nhận thức được nơi con người một năng lực đột khởi tự nhiên, một sự tự do lựa chọn, nó chính là lúc khởi đầu sự biểu lộ của Thượng Đế hay Chơn linh bắt đầu xuyên qua con người. Cái mục tiêu thật sự, cái mục đích phải đạt được không phải là xây dựng những người máy để theo một cách mù quáng một con đường đã vạch sẵn cho họ, nhưng là xây dựng cái phản ảnh của Đức Thượng Đế, tạo thành một nhóm người có uy lực, sáng suốt và hoàn toàn, có thể ưa chuộng điều thiện vì nhận định và hiểu biết được điều này, và họ có thể xua đuổi điều ác, sau khi do kinh nghiệm mà biết được rằng điều ác bất lực và dẫn đến những mối đau khổ. Như vậy, giữa những Đấng Cao Cả sẽ lãnh đạo Vũ trụ vị lai, cũng như giữa các Vị đang lãnh đạo Vũ trụ hiện tại, có một sự nhất quyết do sự quy hợp của tất cả ý chí làm một, nhờ sự hiểu biết và sự tự do chỉ định các ý chí ấy phấn khởi bởi một ý muốn duy nhất do ở sự thông hiểu tất cả mọi việc, các ý chí ấy đã hợp nhất với Định luật vì đã biết rằng Định luật chí công, các ý chí ấy muốn hòa mình với Định luật không phải do một động lực bên ngoài thúc đẩy mà do một sự tự do đồng ý bên trong. Ở cái Vũ trụ vị lai này, Định luật chỉ có Một, cũng giống như ở Vũ trụ hiện tại, và sẽ được thi hành do các Đấng làm tiêu biểu cho Định luật ấy, vì các Ngài có những quan niệm đồng nhất, những kiến thức đồng nhất, cùng những uy lực đồng nhất; Định luật này sẽ không mù quáng và vô tâm, nó sẽ là kết quả của ý chí của một nhóm người vì đã vào bực Siêu Phàm cho nên thành hiện thân của Định luật vậy.

Không có con đường nào khác giúp ta có thể đạt được mục đích như thế, giúp cho tự do ý chí của đa số hợp nhất được với Thiên nhiên cao cả và duy nhất, hợp nhất được với Định luật cao cả và duy nhất; vâng, không còn có con đường nào khác ngoài cái Định Luật nơi đó kinh nghiệm được thâu thập, nơi đó người ta biết được sự ác cũng như sự thiện, người ta biết được sự thất bại cũng như sự thành công. Chừng đó con người trở thành những vị Thiên đế, và do những kinh nghiệm thâu hoạch được, các Ngài đều mong muốn, đều cảm xúc và đều có uy lực giống hệt nhau.

Trong khi cố gắng để đạt tới mục đích này, các vị Chân sư và các vị lãnh đạo nhân loại chúng ta đã đặt nền móng cho nhiều sự văn minh; tất cả đều cấu tạo để đạt mục đích đã ấn định. Tôi không đủ thời giờ để lập lại nền văn minh cao cả của Giống Dân chánh thứ tư đã có trước khi nảy sinh giống dân Aryen oai hùng. Tôi chỉ nói phớt qua rằng một nền văn minh cao cả đã được đem ra thí nghiệm và trong một thời gian đã cho những kết quả tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của những vị Chấp Chánh khác nhau. Rồi các Vị này rút lui, không trực tiếp lãnh đạo nữa, cũng như một người mẹ không nâng đỡ đứa con khi nó học điđể xem nó có thể tiến bước và sử dụng tứ chi của nó mà không cần đến cánh tay của bà mẹ chăng. Cũng vì lý do ấy, các đấng Thánh Sư, các vị Chấp Chánh Thiêng Liêng ẩn mình để coi nhân loại ấu trĩ khi tập đi, sẽ đi được vững hay không. Và nhân loại ấu trĩ này đã vấp ngã, và cái nền văn minh cao cả, oai hùng và hoàn toàn trong những tổ chức xã hội của nó, cái nền văn minh vinh quang vì đã được tạo thành bởi uy quyền và sự hiểu biết, liền sụp đổ dưới sức nặng của lòng ích kỷ của con người, dưới sức nặng của những dục vọng thấp hèn mà nhân loại chưa ngự trị được. Lại phải thử thí nghiệm một lần nữa, và giống dân Aryen cao cả được tạo lập- luôn luôn với những vị Chấp Chánh Thiêng Liêng, luôn luôn với những vị Lãnh Đạo Thiêng Liêng; với một Đức Bàn Cổ. Ngài ban cho luật pháp, xây nền móng văn minh, phác họa hiến pháp, với các Đấng Thánh Sư tụ họp xung quanh Ngài, trông nom sự thi hành pháp luật và dìu dắt nền văn minh ấu trĩ. Như vậy, một gương sáng lại được nêu lên một lần nữa cho nhân loại, một kiểu mẫu mà nhân loại phải tiến theo lại được đưa ra. Rồi những vị Đại Giáo Chủ lại rút lui đi trong một thời gian, để cho nhân loại có thể thử sức mình, xem có thể tự lực bước đi một mình không, và chỉ tự tin nơi mình, nhờ Chơn linh bên trong điều khiển, chớ không do những sự biểu hiện bên ngoài. Như chúng ta đã biết, lần này cũng như lần trước, sự thí nghiệm cũng hoàn toàn thất bại. Như chúng ta có thể nhận định lấy bằng cách nhìn về dĩ vãng, lần này chúng ta cũng trông thấy cái nền văn minh có nguồn gốc thiêng liêng kia dần dần trụy lạc dưới sức mạnh của những bản ngã thấp hèn mà con người chưa học được cách ngự trị, nền văn minh này nhất thời sụp đổ dưới áp lực của những dục vọng bất trị của nhân loại.

Chúng ta hãy trở về với nước Ấn Độ thuở xưa, chúng ta thấy sự cấu tạo hoàn toàn của nó, cái tinh thần thiêng liêng kỳ diệu của nó, và chúng ta lấy con mắt mà theo dõi sự suy đồi của nó từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, khi bàn tay thiêng liêng dìu dắt tự rút ra khỏi tầm mắt con người. Ở mỗi trường hợp, chúng ta nhận thấy rằng sự cố gắng thực hiện cái lý tưởng thiêng liêng đều đưa đến sự thất bại.

Chúng ta hãy nhìn vào thế giới hiện kim và chúng ta trông thấy cái bản năng thấp hèn của con người đã thắng cái lý tưởng thiêng liêng đến mức nào, lý tưởng này đã được nêu lên làm gương mẫu cho con người ngay từ khi khởi đầu của giòng giống Aryen.

Chúng ta thấy rằng ở thời đại ấy, cái lý tưởng của phái Bà la môn, một lý tưởng mà người ta có thể mô tả như là của một tâm hồn sắp được giải thoát, không đòi hỏi gì đến những của cải thế gian, không ham muốn những thú vui xác thịt nữa, không ham muốn giàu có, quyền thế, uy lực cùng những lạc thú của cuộc đời; cái đặc điểm của người Bà la môn là nghéo mà sáng suốt, còn như bây giờ chúng ta thường quá thấy ở nơi người mang danh từ Bà la môn sự giàu có và sự vô minh thay vì sự thanh bạch và sự minh triết. Đó, trong giai cấp này các bạn đã thấy một trong những bằng cớ của sự suy đồi của thế hệ cũ, và ở mỗi giai cấp khác thì cũng thế.

Bây giờ chúng ta thử xem bằng cách nào các đấng Giáo Chủ đưa con người đến chỗ tự do, chọn lựa cái lý tưởng đã đưa ra cho họ- mà họ đã rời bỏ- bằng cách nào các vị Đại Giáo chủ đã cố gắng hướng dẫn sự tiến hóa chưa hoàn toàn của nhân loại đến cái lý tưởng hoàn toàn đã được biểu lộ lúc tiến hóa đã không đạt nó được là do sự yếu đuối và sự non dại của con người.

Để có thể thu thập được kết quả đó trong thời gian của nhiều thế kỷ, người ta dạy con người “Con đường hành động” (Karma yoga). Đó là pháp môn tu luyện để hợp nhất với Thượng Đế bằng sự hành động. Đó là phép tu thích hợp với những người sống giữa chốn phồn hoa đô hội, bị những hoạt động của đời sống vây khốn, ám ảnh, khuấy nhiễu, nhưng mà chính là nhờ những hoạt động này đào tạo và huấn luyện, mà con người có thể bước những bước đầu tiên dắt họ đến sự “hợp nhất”. Và vì đó mà “Con đường hành động” được quy định để huấn luyện con người.

Xin quý huynh chú ý đến sự liên kết của những chữ “hành động” và “hợp nhất”, sự hành động thực hiện lấy ảo tưởng làm kết quả, và sự hành động được hướng dẫn để phát sinh sự hợp nhất. Chúng ta phải nhớ rằng chính là những hoạt động của chúng ta nó chia rẽ chúng ta, nó ngăn cách chúng ta; chính là sự hoạt động thiên hình vạn trạng và luôn luôn biến chuyển nầy nó lôi cuốn chúng ta và làm cho chúng ta bị cô lập. Vậy nói về sự hợp nhất, do sự hành động, nói về sự hợp nhất nhờ cái điều đã sinh ra sự chia rẽ thì hình như mâu thuẫn. Nhưng sự Minh Triết của các Chơn Sư xứng đáng với nhiệm vụ cao cả của các Ngài, cái nhiệm vụ dung hòa, giải lý điều mâu thuẫn bề ngoài nầy. Chúng ta hãy chú ý theo lời giải và xem coi nó ra thế nào.

Dưới ảnh hưởng của ba năng lực của tạo hóa, những “gunas”, những trạng thái của sự vật(1)[ii] con người sớn sác chạy khắp mọi phía: Chơn nhơn giam mình trong xác thịt bị những trạng thái ấy chi phối. Những năng lực này làm việc, chúng nó hoạt động và tạo thành Vũ trụ hữu hình, và con người tự đồng hóa với những hoạt động ấy. Y tưởng y hành động, trong khi thật ra chính những năng lực ấy hoạt động. Y tưởng y mắc bận việc, trong khi thật ra chính những năng lực ấy tạo ra những kết quả. Sống giữa chúng, bị chúng làm cho mù quáng, phải chịu phục tùng những ảo ảnh của chúng tạo ra, con người hoàn toàn mất sự tự hiểu biết và bị lôi kéo phía bên nầy, phía bên kia, bị thúc đẩy đi nơi này, đi nơi nọ, bị những triều lưu lôi cuốn đi, vì thế cho nên tất cả những điều mà con người thấy trong đời sống chỉ là những sự hoạt động của ba trạng thái của sự vật mà thôi. Lẽ cố nhiên, trong những trường hợp ấy, y không thể thực hành những giai đoạn cao siêu của phép Yoga, lẽ cố nhiên khi mà những ảo tưởng này chưa được tiêu tan đi, ít nhất là một phần, thì những mức cao nhất của con đường Đạo hãy còn xa vời đối với y. Y phải bắt đầu hiểu ba trạng thái của sự vật, phải tự ly khai ra khỏi những hoạt động đó của thế giới hữu hình. Và những kinh sách của pháp môn Yoga này- vì chúng ta có thể dùng danh từ đó- những kinh sách của con đường hành động này, đó là những điều đã được Đức Krishna công bố trên chiến trường Kurukshetra, khi Ngài dạy pháp môn ấy cho hoàng tử Arjuna, một chiến sĩ, một người phải sống trong xã hội, phải chiến đấu trong trường đời, phải cai trị quốc gia, và phải dự phần vào mọi hoạt động bên ngoài; chính ở đó là bài học ngàn đời cho những ai sống trong thế gian này, bài học dạy họ tuần tự vượt lên cao khỏi tầm những trạng thái của sự vật (gunas), và như thế để đi đến sự hợp nhất với Thượng Đế.

Trước hết, “Con đường hành động” này làm cho những tác động kể trên được thuần lại và có quy thức. Như các bạn đã biết, có ba trạng thái của sự vật là: Động (Rajas), Tĩnh(Tamas) và Thăng bằng(Sattva). Do ba trạng thái này mà mọi vật xung quanh chúng ta được xây dựng, kết hợp, hòa hợp muôn ngàn cách. Trạng thái này tác động nơi đây, trạng thái kia làm việc ở mọi hướng. Phải ngự trị chúng, phải bắt buộc chúng giữ cho được quân bình. Chơn nhơn nhập thế, người chủ của xác thân, phải là chủ nhân có uy quyền và phải lập một sự phân biệt giữa y và những trạng thái của sự vật, những “gunas”. Cái việc phải làm là tự giảng giải những nhiệm vụ của chúng, kiểm soát và hướng dẫn những hoạt động của chúng. Ta không thể đương nhiên vượt khỏi tầm của chúng hay làm trái ý chúng- cũng như một trẻ nít không thể làm công việc của người lớn. Trong cái trạng thái tiến hóa chưa hoàn

toàn này, nhân loại có thể đạt đến chỗ tuyệt đích của pháp môn Yoga được không? Không, vì nếu con người ráng tập thử thì thiệt là không khôn ngoan thì không những em nhỏ làm không nổi mà, trong khi thử làm, em sẽ vượt cái mức của sức em, và điều này sẽ đưa đến sự thất bại, trong tương lai cũng như hiện tại, vì cái nhiệm vụ quá nặng nề đối với sức lực của em sẽ làm cho sức lực ấy kém suy và mòn mỏi. Trước khi có thể thành công, người ta phải tập rèn sức của mình đã, cũng như con nít phải đến tuổi trưởng thành trước khi có thể làm một công việc của người lớn.

TAMAS

Ta hãy xem xét trong chốc lát cái nhiệm vụ của trạng thái Tĩnh (Tamas) mà người ta dịch bằng những danh từ: tối tăm, biếng nhác, bất động, trễ nãi v.v… Nếu người ta dùng trạng thái này để giúp sự tiến hóa của nhơn loại, thí nó có thể làm cái nhiệm vụ nào? Về phương diện phát triển con người và giải thoát linh hồn thì trạng thái Tĩnh này có ích lợi gì? Trong con Đường Hành Động, trạng thái nầy chỉ được dùng như là một sức mạnh mà người ta phải đương đầu và phải thắng nó, để phát triển sức lực trong sự đấu tranh, để làm nảy nở sức mạnh của ý chí trong sự cố gắng nầy, tập lấy sự tự chủ và kềm chế bản thân. Người ta có thể nói rằng trạng thái nầy có ích cho sự tiến hóa của con người, cũng như những quả tạ trong sự tập dượt của người lực sĩ. Người nầy sẽ không thể làm tăng sức bắp thịt của mình nếu không có dụng cụ để luyện tập. Y sẽ không có những bắp thịt mạnh mẽ nếu chúng không cứng rắn lại trong khi cố gắng đễ nhấc bổng những quả tạ. Cái quan hệ không phải là sức nặng của những quả tạ mà là việc sử dụng những quả tạ ấy, và nếu một người muốn cho những bắp thịt của thân thể y, như những bắp thịt của cánh tay chẳng hạn, trở nên thiệt mạnh, cái điều tốt nhất mà y có thể làm, là lấy một quả tạ và luyện tập hằng ngày để chống lại với cái sức mạnh kháng cự. Do cách đó, mà trạng thái Tĩnh, nghĩa là sự trễ nãi hay sự tối tăm, có nhiệm vụ trong sự tiến hóa của con người. Y phải thắng trạng thái nầy và phát triển sức lực của mình trong khi chiến đấu, những bắp thịt của tâm hồn sẽ mạnh khi y làm chủ được tánh trễ nãi, tánh lười biếng, tánh lãnh đạm, nghĩa là những tánh của trạng thái Tĩnh có sẵn trong bản chất y.

Quý huynh sẽ nhận thấy rằng những lễ bái nghi thức của tôn giáo được đặt ra là để ngự trị những tính chất của trạng thái Tĩnh đó, ít nhất một phần nào, mục đích của chúng là giúp cho con người thắng sự chậm chạp, sự lười biếng và sự uể oải thuộc bản thể thấp thỏi của y, và để cho y phải làm một vài bổn phận trong một lúc nhất định, dù lúc đó y muốn làm hay không muốn làm, dù lúc đó y hoạt động hay lười biếng- tôi nói là để cho y đứng trước những bổn phận phải làm trong một lúc nhất định, nghĩa là luyện tập cho y chế ngự sự chậm chạp, sự khinh xuất hay là sự bướng bỉnh của cái bản thể thấp thỏi của y và bắt y theo con đường mà người ta đã muốn vạch sẵn cho y.

RAJAS

Nhưng nếu chúng ta xét trạng thái Động (Rajas) thì cũng thế. Quý huynh sẽ thấy rằng trong Con Đường Hành Động (Karma Yoga), những hoạt động của con người được hướng theo một vài nẻo nhất định mà tôi sắp theo dõi cùng với quý huynh để quý huynh có thể hiểu bằng cách nào những hoạt động ấy, luôn luôn được tác dụng trong thế giới hiện kim, nó tự biểu lộ trong mọi phương hướng, nó đưa đến sự vội vàng, sự chuyển động và sự luôn luôn cố gắng, dể được thành công trong đời sống thấp thỏi và thâu được những kết quả, những hiện tượng vật chất; bằng cách nào những hoạt động ấy được dần dần hướng dẫn, luyện tập, tinh luyện, cho đến khi chúng không có thể ngăn cản sự biểu lộ của Chơn linh nữa.

Cái mục đích của Con Đường Hành Động (Karma Yoga) là lấy bổn phận thay thế cho sự sung sướng cá nhân. Con người hành động để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của y; y hành động là vì y muốn có một vật gì; y hành động để được lợi, để được một vật mà y muốn, để được một phần thưởng. Y làm việc vì y muốn có tiền để tìm kiếm cho mình những sự thích thú. Y làm việc vì y ham muốn quyền tước, nó sẽ làm thỏa mãn bản ngã thấp thỏi của y. Những hoạt động, những tánh chất “Động” ấy được vận chuyển để giúp những bản năng thấp hèn của y. Muốn khép những hoạt ấy vào kỷ luật và điều hòa chúng nó, ngõ hầu được xử dụng cho những mục tiêu của Chơn Linh cao cả, thì phải làm cho con người biết lấy bổn phận mà thay thế cho sự sung sướng riêng tư; làm việc vì công việc là một trong những bổn phận của y, phải hoạt động giúp đời, vì đó là nhiệm vụ của y, và để có thể làm cái điều mà Đức Krishna đã tuyên bố chính Ngài cũng đã làm. Ngài hành động không phải vì Ngài có một vật gì cần phải kiếm ở cõi đời nầy hay ở cõi khác đâu, nhưng vì nếu Ngài không hành động thì thế giới sẽ tận diệt, vì nếu không có sự hành động của Ngài thì bánh xe tạo hóa sẽ không quay nữa. Và những ai tu luyện theo phép Yoga đều phải hành động trong một tinh thần giống như Ngài, hành động cho toàn thể chớ không phải cho phần tử, hành đông để thực hiện Thiên Ý trong Vũ trụ chớ không phải để làm vui thích một cá nhân riêng biệt nó tự cho là độc lập, nhưng thật ra nó phải làm việc dưới Thiên Lệnh. Người ta sẽ đạt được mục đích ấy bằng cách nâng cao dần dần cái phạm vi hoạt động của mình. Bổn phận phải thay thế cho sự sung sướng cá nhân, và những lễ nghi tôn giáo và những sự cúng kiến được đặt ra để dắt dẫn con người lần lần đến cái đời sống thật sự mà họ phải sống. Mọi sự hành lễ có tính cách tôn giáo chỉ là một phương tiện để dẫn con người đến đời sống thật sự, đời sống cao siêu.

Một người bắt đầu tham thiền sáng sớm và khi mặt trời lặn, rồi sau cùng cả cuộc đời của y chỉ là một sự tham thiền dài vô tận. Y tham thiền trong một giờ để tự chuẩn bị tham thiền mãi mãi. Mọi hoạt động sáng tác đều là kết quả của sự tham thiền, và quý huynh sẽ không quên rằng tất cả những thế giới được tạo nên là do sự tham thiền vậy. Để con người có thể đạt được cái uy lực sáng tác cao cả ấy của sự tham thiền, để y có thể xử dụng cái sức mạnh thiêng liêng ấy, y phải được luyện tập nhờ những lễ nghi tôn giáo, nhờ sự tham thiền từng lúc. Sự tham thiền có giờ khắc là bước đầu tiên để đi đến sự tham thiền bất tuyệt; nó thu hút một phần của đời sống hằng ngày, với mục đích rốt ráo là thấm nhuần trọn kiếp sống, và người ta tham thiền hằng ngày để sự tham thiền có thể dần dần kéo dài suốt đời.

Rồi tới một lúc kia, người hành giả (Yogi) không còn có thì giờ nhất định để tham thiền nữa, vì đời y chỉ là một sự tham thiền dài dòng. Dù y làm một việc gì ở ngoại cảnh y cũng tham thiến, và luôn luôn y quỳ dưới chân Sư Phụ y, dù cho khối óc và xác thân y hoạt động trong thế giới loài người. Đối với những loại hoạt động khác cũng thế, con người thoạt đầu học làm một việc như một sự hy sinh cho bổn phận, một sự trả nợ đối với thế gian nơi đó y sống, như sự đền bù lại cho mọi phần tử của Tạo Hóa về những điều mà chúng nó đã chu cấp cho y. Rồi sau này, sự hy sinh vượt khỏi tính cách một sự trả nợ, để trở thành sự hiến dâng vui vẻ tất cả những gì mà con người có thể đem tặng. Sự hy sinh một phần, đó là món nợ được trang trải, sự hy sinh hoàn toàn, đó là sự hiến dâng tất cả. Một người tự hiến dâng tất cả những hoạt động của y, với tất cả những khả năng của y, không những chỉ bằng lòng bỏ ra một phần cái gì thuộc về phần sở hữu của y, như người ta trả một món nợ, nhưng y nộp tất cả như người tiêu pha rộng rãi. Khi người ta đi đến mức này, phép tu Yoga đã hoàn tất và bài học của Pháp Môn Hành Động (Karma Yoga) đã thuộc làu.

NĂM SỰ HY SINH HẰNG NGÀY

Quý huynh hãy coi “năm sự hy sinh hằng ngày” như là một bước dắt đến mục đích nói trên; ít ra danh từ của năm sự hy sinh này đã quen thuộc đối với quý huynh và quý huynh đã nhận định được lý do của mỗi sự hy sinh. Mỗi sự hy sinh là một cách trả nợ, ấy là sự biết ơn của con người, với tư cách cá nhân, vì con người còn mắc nợ của toàn thể trong hoàn cảnh mà y đang sống. Và nếu quý huynh phân tách riêng những sự hy sinh này ra, dù có phân tách rất nhanh chóng, quý huynh sẽ thấy rõ ràng mỗi sự hy sinh là một sự trả nợ thật sự.

1.-SỰ CÚNG TẾ CÁC ĐẤNG THẦN MINH.Chúng ta hãy nói về sự hy sinh đầu tiên: “Sự cúng tế các đấng Thần Minh”. Tại sao có sự cúng tế này? Vì con người phải hiểu biết rằng y mắc nợ thế gian và những vị Thần Linh chỉ huy những tác động trong thiên nhiên nhờ đó quả Địa Cầu mới có cây trái và cho con người thực phẩm. Con người đã lấy được để ăn, để nuôi sống xác thân, thì muốn trả nợ, con người phải hoàn lại cho Tạo Hóa một cái gì tương đương với thứ đã được chu cấp cho y, nhờ sự hợp tác của những Thần Linh trong vũ trụ, những vị Thiên Thần dìu dắt những động lực của Hạ Giới. Người ta đã dạy con người rằng y phải rải rác món đồ hy sinh của y trong lửa.Tại sao? Câu trả lời để giải đáp là: “Agni, Hỏa Đức Tinh Quân, là miệng của những Thần Linh”, và mọi người lập lại câu nói đó mà không tìm hiểu cài nghĩa của nó, không tìm cách vượt khỏi cái danh từ Thiên Thần để có thể hiểu nhiệm vụ của Ngài trong thế gian. Nghĩa thiệt của câu này là chung quanh ta, khắp mọi nơi, đều có những cộng sự viên có ý thức và tiềm thức của Tạo Hóa, sắp lại thành những hệ thống, với một vị Đại Thiên Thần của Vũ Trụ cầm đầu mỗi hệ thống ấy. Như thế, dưới quyền của vị Thiên Thần cai trị lửa, không khí, nước và đất (bốn chất Địa, Thủy, Hỏa, Phong) có vô số những vị Thần nhỏ có những nhiệm vụ hoạt động khác nhau để phát động những mãnh lực thiên nhiên của Vũ Trụ, như mưa gió, những khả năng sinh sản ra cây trái của đất và các thứ ảnh hưởng làm cho đất đai phì nhiêu. Vậy cái hy sinh mà chúng ta nói đây có mục đích nuôi những nhân viên thấp thỏi ấy, cung cấp đồ ăn cho họ qua ngọn lửa và lửa được gọi là “miệng của những Thần Linh”, vì nó làm tan rã, vì nó biến đổi những chất đặc và lỏng ném vào đó ra chất hơi và những chất nhẹ hơn, cuối cùng, những chất này thành ra dĩ thái, và dưới hình thức ấy, để dùng làm thực phẩm cho những tinh linh thấp thỏi (âm binh)(1)[iii] chúng nó thi hành những mệnh lệnh của những Thiên Thần. Con người trả nợ Thần Linh như thế đó, và để đền đáp lại mưa rơi xuống những miền ở dưới lớp không khí bao bọc trái đất, trái đất mới sinh cây trái và con người mới có đồ ăn. Đó là điều mà Đức Krisna muốn nói, khi Ngài dạy con người rằng: “Ngươi hãy nuôi những Thần Linh thì những Thần Linh sẽ nuôi lại ngươi”. Đó là cái sự tuần hườn hạ cấp của sự nuôi dưỡng mà con người phải học cho biết. Thoạt đầu, y coi điều đó như là một giáo lý, rồi đến một lúc kia y coi đó như là một sự mê tín dị đoan, khi y chưa hiểu những nguyên do thật sự vì y chỉ mới thấy bề ngoài. Về sau mới hiểu biết một cách sâu xa hơn, khi mà khoa học, trước kia hướng về phần duy vật rồi dần dần, nhờ một sự nghiên cứu thâm sâu hơn, mà đi đến sự hiểu biết vế địa hạt tinh thần. Khoa học khởi sự giải nghĩa bằng những danh từ khoa học để diễn tả những điều mà các Thánh Sư đã thuyết bằng những danh từ thần bí, điều đó có nghĩa là con người có thể hướng dẫn và điều hòa sự tác động của những mãnh lực hạ cấp thiên nhiên bằng những hành vi của y. Như vậy khoa học tân tiến đang cho những giáo lý cổ truyền là hữu lý và chứng minh cho trí khôn thấy cái điều mà người phi phàm trông thấy bằng trực giác, bằng nhãn quang siêu linh.

2.-Sự thờ phụng tổ tiên. Rồi đến sự thờ phụng tổ tiên. Ấy là sự biết ơn những bậc tiền bối trên thế gian; ấy là sự trả nợ cho thế gian; ấy là sự trả nợ cho những ai đã làm việc trên thế gian trước khi con người sinh ra; ấy là lòng biết ơn và sự tôn kính dành cho những bậc tiền bối đã góp phần tạo nên thế giới hiện kim cho chúng ta và đã đem vào đó những sự cải thiện mà chúng ta thừa hưởng. Công ấy là một món nợ ân nghĩa mà ta phải mang, đối với những vị đã đến trước chúng ta trong trường tiến hóa của nhân loại; các Ngài đã dự một phần vào sự tiến hóa này trong lúc Ngài còn sống trên thế gian, và đã để lại cho chúng ta cái kết quả những công việc của các Ngài đã thi hành. Vì chúng ta hái cái quả của những việc các Ngài đã làm, nên chúng ta trả nợ bằng cách bày tỏ lòng biết ơn đối với các Ngài. Vì vậy mà một trong những sự hiến dâng hằng ngày là sự nhận biết món nợ ân nghĩa mà chúng ta còn thiếu của những người đã khuất bóng.

3.-Sự hiến dâng kiến thức. Dĩ nhiên, kế đó là “sự hiến dâng kiến thức” “sự hiến dâng sự học hỏi”, để mà nhờ sự nghiên cứu những Thánh Kinh mà con người có thể: một là, giúp đỡ và huấn luyện những kẻ ngu dốt hơn mình và hai là, làm cho họ phát triển cái sự hiểu biết cần thiết cho sự biểu lộ của Phàm nhơn.

4.-Sự hy sinh cho nhân loại. Thứ tư là “sự hy sinh cho nhân loại”, sự làm tròn nhiệm vụ của mình đối với nhân loại, sự nuôi sống một người nào đó để tuyên bố rằng mọi người phải giúp đỡ lẫn nhau, thân thiện cùng nhau về đủ mọi mặt ở cõi đời vật chất, phải cưu mang nhau như anh em ruột thịt. Sự hy sinh cho nhân loại là sự nhận biết hẳn hòi về nhiệm vụ nầy, và khi nuôi những kẻ đói, khi thiết đãi những kẻ cần được nuôi nấng, dẫu rằng quý huynh chỉ nuôi có một người, thật ra, về phương diện lý tưởng, và do theo ý tốt của quý huynh, chính quý huynh đã nuôi tất cả nhân loại vậy. Khi huynh cho một người đi qua cửa thức ăn và chỗ ở, thì huynh mở cửa lòng huynh cho tất cả nhân loại như là một đại thể; khi huynh giúp đỡ và cho một người trú ngụ thì huynh đã giúp đỡ và cho tất cả nhân loại trú ngụ vậy.

5.- Sự nuôi dưỡng loài vật. Đối với sự hiến dâng cuối cùng, sự nuôi dưỡng loài vật thì cũng thế. Người chủ gia đình phải để đồ ăn dưới đất, đặng cho bất cứ con vật nào đi qua cũng có thể ăn được. Đó là bổn phận của huynh đối với loài vật thấp kém, vì huynh phải giúp đỡ, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Sự nuôi dưỡng loài vật có mục đích in vào trí nhớ chúng ta rằng chúng ta xuống thế gian này để dạy bảo, hướng dẫn và giúp đỡ những sinh vật thấp kém, nghĩa là tất cả những loài nào còn thấp kém hơn chúng ta trên nấc thang tiến hóa. Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, hung bạo, cộc cằn, ác độc, với loài vật, thiệt ra chúng ta có lỗi đối với Đấng ngự trong mình chúng, bởi vì chúng là những biểu lộ thấp thỏi của Ngài. Con người phải nuôi dưỡng cho loài vật, không phải nuôi dưỡng cho cái hình thể bề ngoài, mà cho Thượng Đế ẩn tàng bên trong, để tập phân biệt được cái gì tốt lành ở nơi loài vật, để y có thể hiểu rằng Đức Krishna ngự nơi súc vật thấp thỏi, mặc dầu Ngài ngự nơi đó dưới một hình thức được che kín hơn là ở con người. cái cách duy nhất để chúng ta nuôi dưỡng cho loài vật là cư xử với chúng cho tử tế, dịu dàng và từ ái, dạy dỗ chúng, giúp chúng tiến hóa thay vì xô đuổi chúng một cách tàn bạo, ác độc như chúng ta thường trông thấy xung quanh.

Như thế, con người nhờ những lễ nghi cúng kiếng bề ngoài, mà học được những chân lý thiêng liêng để chúng nó thấm nhuần đời y. Và sau khi đã làm đầy đủ năm sự hiến dâng, con người phải đi vào trong xã hội loài người để hiến dâng nữa những hành động thuộc một loại khác, để hiến dâng bằng cách làm đầy đủ bổn phận hằng ngày. Và mỗi ngày của y bắt đầu bằng năm sự hiến dâng, được Thánh hóa và trôi qua trong đời sống ngoại cảnh của xã hội. Trong đời sống ngoại cảnh nầy, sự cẩu thả không lo tròn nhiệm vụ đã tăng lên cúng một lúc với sự hững hờ đối với năm sự hiến dâng này. Không phải chính sự hiến dâng đó là cần thiết, vì tới một lúc kia, con người sẽ vượt khỏi chúng nó; nhưng quý huynh hãy nhớ điều này: con người chỉ vượt khỏi năm sự hiến dâng này khi nào tất cả cuộc đời y đã biến thành một sự hiến dâng trường kỳ. Từ đây cho đến lúc đó, sự nhận thức rõ ràng về những bổn phận của y là cần thiết để y có thể làm cho đời sống của mình cao thượng hơn. Nhưng đáng thương thay, tại Ấn Độ bây giờ, người ta rất ít quan tâm đến những sự hiến dâng này, không phải vì người ta đã vượt khỏi chúng nó, cũng không phải vì đời sống của người ta đã khá trong sạch, thiêng liêng và cao thượng để họ không còn cần đến sự giáo dục sơ cấp và sự nhắc nhở luôn luôn, nhưng là bởi vì người ta đã bơ thờ, duy vật và đã xuống thấp hơn cái lý tưởng của Đức Bàn Cổ đã dạy họ. Họ từ chối, không công nhận những món nợ mà họ còn thiếu đối với những thần lực cao hơn họ, và vì vậy, họ không làm những bổn phận của họ đối với những người xung quanh.

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét đời sống ngoại cảnh hằng ngày hay là bổn phận của con người trong xã hội. Dù y là người thế nào, y cũng sinh trưởng trong một gia đình riêng biệt; điều nầy tạo nên những bổn phận của y đối với gia đình. Y thuộc về một nhóm trong xã hội: do đó y có những bổn phận đối với xã hội. y là một phần tử của một quốc gia: điều nầy buộc y có những bổn phận đối với quốc gia. Giới hạn những bổn phận của mỗi người được ấn định bởi hoàn cảnh nơi đó y đã ra chào đời, hoàn cảnh nầy do Định Luật, do sự thúc đẩy của nghiệp quả đối với mỗi người mà thành một cái trường hoạt động, một cái sân để luyện tập, trong đó y phải học hỏi. Ví vậy người ta mới nói rằng: mỗi người phải làm đầy đủ bổn phận của chính mình, dù một cách chưa hoàn toàn đi nữa cũng còn hơn là kiếm cách làm một nhiệm vụ cao cả của kẻ khác, bởi vì cái nhiệm vụ do giai cấp của huynh ấn định chính là điều mà huynh cần đến, và đó là cái trường hoạt động tốt nhất của huynh.

Huynh hãy làm bổn phận mình mà không âu lo đến những kết quả, và huynh sẽ học được bài học của đời sống, huynh sẽ đi vào con Đường Đạo. Lúc thoạt đầu, mỗi hành động dĩ nhiên sẽ thực hiện để có kết quả. Con người hành động vì muốn hưởng một sự ban thưởng. Điều nầy làm cho huynh hiểu những lời giáo huấn đầu tiên mà con người đã nhận được, khi người ta đã dạy y hành động với mục đích thâu những kết quả ở cõi Thiên Đường. Sự phát triển của con người ấu trĩ được thực hiện bằng sự hứa hẹn ban thưởng xứng đáng. Người ta chỉ cho y Thiên Đường là cõi phải đạt được do việc làm; khi làm đầy đủ bổn phận về tôn giáo, con người sẽ được ban thưởng ở cõi Thiên Đường. Theo cách đó, y dần dần thực hành đạo đức, giống hệt như huynh dìu dắt một đứa trẻ nít học bài bằng cách hứa cho em một sự ban thưởng. Nhưng nếu ta muốn lấy Đạo (Yoga) làm mục đích, chứ không phải một phần thưởng nào cả thì ta phải hành động như khi ta thực hiện một bổn phận.

Quý huynh hãy thử xét qua bốn giai cấp lớn(1)[iv] và nhận định cái mục đích mà người ta đã nhắm khi lập ra những giai cấp ấy.

I.-Người Bà la môn. Người bà la môn có bổn phận dạy dỗ, làm những bậc thấy sáng suốt để dìu dắt sự tiến hóa của nòi giống. Y không được học hỏi để kiếm tiền, để có quyền thế, để thâu thập bất cứ một cái gì cho bản thân y; y phải học hỏi để làm đầy đủ nhiệm vụ mình,y phải có sự hiểu biết để có thể truyền nó lại cho kẻ khác. Như vậy, một quốc gia được thành lập một cách hoàn hảo luôn luôn phải có những bậc thầy để dạy bảo, những bậc thầy để có thể hướng dẫn, khuyên răn và không bao giờ đuổi theo một mục đích ích kỷ. Theo cách đó, ông Thầy không được kiếm chác cho riêng mình, nhưng phải làm điều lợi lộc cho toàn dân, và hành động như vậy, ông làm đầy đủ cái thiên chức của mình và linh hồn được giải thoát.

II.-Người chiến sĩ. (Kshattriya: Sài-đế-lị). Rồi đến con Đường Đạo dành cho con người đầy hoạt động, có bổn phận cai trị và gìn giữ trật tự, con Đường Đạo dành cho giai cấp thống trị, giai cấp các chiến sĩ(Sài-đế-lị). Người chiến sĩ(Kshattriya) phải cai trị. Tại sao vậy? Không phải để làm thỏa mãn lòng khao khát uy quyền của mình, nhưng để thực hiện sự công bằng, để cho kẻ nghèo được an toàn và để kẻ giàu không được áp chế, bạo ngược, để làm nổi bật sự chân chánh và công bình trong cõi thế gian đấy những sự tranh đấu không ngừng này. Và như vậy, là vì ở chính giữa cõi đời đấy những sự chiến đấu, những sự căm hờn, những sự tranh chấp này, nơi đó con người tìm cách thỏa mãn lòng ích kỷ của họ thay vì theo đuổi quyền lợi công, phải dạy cho họ biết rằng sự công bình phải được thực hiện; nếu người khỏe mạnh lạm dụng sức mạnh của mình, thì chánh quyền vô tư sẽ đàn áp sự lạm dụng bất chánh ấy, và kẻ yếu đuối không thể bị chà đạp, đè nén. Và bổn phận của ông Vua là ban rải sự công bình cho mọi người để họ có thể coi ngôi báu như là nguồn cội của sự công bình thiêng liêng. Đó là lý tưởng của vị Thánh Đế, của vị Đế Vương thay Trời trị dân. Đức Rama đã giáng trần để dạy lý tưởng nầy. Đức Krishna cũng đã giáng trần để dạy lý tưởng nầy, nhưng con người mê muội tối tăm đến đỗi không muốn học bài học đó. Người chiến sĩ (Sài-đế-lị)l ại dùng uy quyền mình để tự làm thỏa mãn dục vọng và để đàn áp kẻ khác. Y chiếm đoạt của cải của người ta và bắt người ta phải làm việc cho y. Y đã quên mất cái lý tưởng của vị Vua thay Trời trị dân, lý tưởng này hiện thân của sự công bình trên thế gian đầy những sự tranh đấu giữa loài người. Nhưng cái lý do duy nhất của đời sống y là lấy sự thực hiện cái lý tưởng này làm mục đích trọn một kiếp của mình, và vì vậy bổn phận của y là cai trị đất nước làm sao được lợi lộc cho cả xứ sở, chớ không phải để có lợi riêng cho mình. Khi y được gọi đi làm nhiệm vụ một quân nhân, thì cũng thế. Dân chúng phải có thể làm ăn trong cảnh thái bình. Những người nghèo khổ và hiền lương phải có thể sống trong sự an ninh, giữa gia đình sung sướng và đông đúc của họ. Người thương gia phải có thể yên tâm mà lo việc buôn bán. Mọi công việc của thế gian nầy phải được thực hiện mà không phải lo sợ về những sự tấn công, cướp bóc. Vì vậy, người ta dạy người chiến sĩ rằng khi y phải chiến đấu thì đó là nhân danh người bảo vệ cho những kẻ yếu đuối; nếu y tự do hy sinh đời sống của mình thì đó là để cho những kẻ yếu đuối có thể sống an ổn.Y không được chiến đấu vì muốn có tiền, cũng không được chiến đấu để chiếm đoạt đất đai. Y không được chiến đấu vì ham quyền tước hay là ham ngôi báu. Nhiệm vụ của y là làm một bức tường thành cứng như thép xung quanh guốc gia để cho mọi sự tấn công đều tan vỡ khi chạm vào thân thể y, và để cho ở phía trong cái vòng tròn mà y đã vẽ, người ta có thể sống sung sướng trong cảnh thái bình và an lạc. Muốn đi con Đường Đạo, thì trong khi làm cái nhiệm vụ chiến sĩ, y phải tự coi mình như là nhân viên của Thượng Đế và vì thế mà Đức Krishna đã dạy rằng Ngài đã làm tất cả những điều đó và Arjuna chỉ lập lại cái hành động ấy trong thế giới loài người mà thôi. Và mỗi khi người ta tìm thấy Thượng Đế trong mỗi hành động của con người thì con người có thể hành động như làm bổn phận thôi, không mong mỏi cái gì khác, và những hành động của y không còn có thể ràng buộc y được nữa.

III.-NGƯỜI THƯƠNG GIA (Vaishya: Tỉ xá). Đối với người thương gia (Vaishya: Tỉ xá) có nhiệm vụ thu góp, chất chứa những của cải thì cũng thế. Y làm việc này không phải để thỏa thích sự thỏa mãn riêng của mình, mà để nuôi dưỡng quốc gia. Y phải giàu có để mọi ngành hoạt động cần đến của cải thì có liền tay, và để có thể phát triển về đủ mọi phương diện, để có khắp mọi nơi những chỗ ở cho kẻ nghèo nàn, những nhà nghỉ chân cho khách lữ hành, những bệnh viện cho con người cũng như cho loài vật, những đền miếu để thờ phụng và sau cùng, để có khắp nơi những tiền của cần thiết để tiêu dùng về những hoạt động của một quốc gia hoàn hảo. Cái nghiệp của y là thu góp những của cải trong sự ích lợi chung, chớ không phải để thỏa lòng riêng tư của mình. Theo cách đó, y cũng có thể đi trên con Đường Đạo, và do con Đường Hành Động, y tự chuẩn bị sống một cuộc đời cao siêu.

IV.- Người tôi tớ. (Shudra: Su-Tra). Đối với người tôi tớ phải làm đầy đủ nhiệm vụ mình cho sự ích lợi công cộng thì cũng thế. Y có thể ví như bàn tay của quốc gia, mang đến cho sứ xở điều gì cần thiết và làm những công việc gia sự. Đạo của y, nếu y thực hành nó, là phải vui vẻ làm bổn phận mình, bổn phận mà y phải làm, chớ không phải để được ban thưởng xứng đáng với công việc đã làm.

Thoạt đầu, con người chỉ hành động để tự thỏa mãn ý thích riêng tư, và kinh nghiệm của y chỉ đem đến sự tiến bộ; về sau y tập hành động vì bổn phận, và bắt đầu hành đạo trong đời sống hằng ngày; sau cùng y hành động vì tinh thần hy sinh vui vẻ, không đòi hỏi sự gì bù đắp lại, mà trái lại còn đem hết sức lực của mình để làm đấy đủ nhiệm vụ. Sự Hợp Nhất với Thượng Đế được thực hiện theo cách đó.

Chúng ta hiểu nghĩa chữ “tinh luyện”; khi chúng ta xem xét những giai đoạn nối tiếp của sự sung sướng cá nhân, của việc làm bổn phận vì bổn phận, và sau cùng sự hiến dâng trọn vẹn tất cả những gì ta có, dưới hình thức của sự tự ý hy sinh. Đó là những giai đoạn mà người ta phải trải qua trên con đường tinh luyện. Nhưng bằng cách nào để đạt được một thứ tinh luyện nó dắt ta đến những mức độ cao siêu, nó ban cho ta cái địa vị đệ tử mà tất cả những hoạt động của thế gian nầy phải dùng để đào luyện. con người phải được tinh luyện toàn diện, về thể chất cũng như về trí thức. Tôi không có thì giờ nhấn mạnh về sự tinh luyện xác thân, nhưng tôi cần nhắc quý huynh nhớ lại nhựng giáo lý của kinh “Thánh Sư Ca” (Bhagavad gita). Những giáo lý đó nói rằng người ta có thể đi đến sự tinh luyện ấy bằng sự điều độ ở mọi sự, chớ không phải bởi một sự khổ hạnh nó hành hạ xác thân và hành hạ cả Thượng Đế ngự nơi đó, như Đức Krishna đã nói. Con Đường Đạo được thực hiện bằng cách kiểm soát bản thân một cách điều hòa, bằng cách chế ngự những dục vọng thấp hèn của mình, bằng sự lựa chọn một cách điềm tĩnh thức ăn tinh khiết, bằng sự luyện tập có chừng mực tất cả những hoạt động về thể xác để có thể huấn luyện một cách điều hòa và giữ cho có chừng mực những cơ năng của cả thân thể, cho đến khi người ta có thể đặt xác thân dưới sự kiểm soát của Ý Chí và Chơn Linh. Vì vậy cho nên đời sống gia đình được ấn định, vì trừ một vài trường hợp hiếm có, con người chưa có thể theo con đường độc thân khó khăn. Sự độc thân của người Bà la môn giáo (Brahmacharya), không phải là dành để cho tất cả mọi người. Do đời sống gia đình, con người tập cho lòng dục của mình có điều độ, chớ không phải là tuyệt dục- một sự mà đa số người ta không thể thực hành được, và nếu người ta cứ thử cố gắng trừ tuyệt nó bằng một sự quyết chí khinh suất, thì việc ấy sẽ gây ra một phản động lực xô đẩy kẻ dại dột vào hố trụy lạc và sống một đời cuồng loạn- Vậy thì không phải cố gắng để nhổ tận gốc rễ hay trừ tuyệt sự ái ân một lần một, mà là cố gắng tập luyện dần dần cho có điều độ bằng cách từ bỏ những thú vui trong lòng,nơi đó những dục vọng thấp hèn phải được tiết chế và có thói quen để cho những bản năng cao siêu điều khiển. Chúng nó phải từ bỏ cách hoạt động cuồng loạn để rồi hoàn toàn phục tòng Đấng Duy Nhất. Con Đường Hành Động này khởi đầu như sau đây: Người chủ gia đình phải dần dần học cách tự kiểm soát, bằng cách giữ cho có chừng mực trong mọi việc, y đem để những dục vọng thấp hèn của mình ở dưới quyền sai khiến của những bản năng cao siêu, và tự rèn luyện như vậy hằng ngày cho đến khi những bản năng ấy hoàn toàn tuân theo mạng lệnh của ý chí. Như vậy y tự tinh luyện xác thân và có thể tiến lên những mức cao siêu của con Đường Đạo. Rồi y lại phải hoàn toàn tinh luyện những dục vọng thấp hèn của y.

1.- SỰ NÓNG GIẬN

Chúng ta hãy lấy vài thí dụ- Tôi muốn cho quý huynh ba thí dụ để quý huynh có thể áp dụng chúng trong đời sống. Chúng ta hãy thí dụ tật hay giận dữ và thử xem xét tánh này có thể biến đổi cách nào trên Con Đường Hành Động để trở thành một tánh tốt. Sự giận dữ là một sức mạnh, một sức mạnh tuôn ra tự con người để sinh ra những ảnh hưởng xung quanh nó. Ở con người kém mở mang và ít luyện tập sự tức giận này là cuồng tính. Nó lấy nhiều hình thức khác nhau làm đổ vỡ những gì chống đối với nó, và rất ít lo đến những phương tiện mà nó sử dụng, nó chỉ cốt xua đuổi tất cả những gì chống đối với sự thỏa mãn ý muốn của nó. Ở trong trạng thái này, cái sức mạnh thiên nhiên đó có tính cách vô trật tự và tàn phá, và ai muốn đi theo Con Đường Hành Động chắc chắn là phải chinh phục nó. Vậy y phải chinh phục và huấn luyện sự giận dữ này bằng cách nào? Thoạt đầu y phải loại ra mọi yếu tố cá nhân. Khi y bị nhục mạ, hay phải chịu một sự thiệt hại cá nhân, thì y tập không cảm thấy sự nhục mạ hay sự thiệt hại đó. Ấy là cái điều mà đa số quý huynh phải làm. Nếu một người nào cư xử không phải hay bất công với huynh, thì huynh sẽ làm gì? Có thể huynh tự để cho sự tức giận lôi cuốn mình và đánh người ấy. Một người đã lường gạt huynh ư? Để trả thù, huynh tìm cách làm cho y bị thiệt hại và sẽ lợi dụng y. Y phản bội huynh ư? Huynh cũng sẽ tấn công y ở phía sau và tìm cách làm hại y. Theo cách ấy, sự giận dữ sinh ra những sự tai hại, và ở mọi phía, người ta chỉ trông thấy sự tàn phá trong xã hội loài người, chớ đáng lẽ ra xã hội phải tốt đẹp nhiều hơn nữa. Phải tinh luyện tật xấu này bằng cách nào? Tất cả các Vị Đại Sư đã trả lời câu hỏi nầy khi các Ngài dạy Con Đường Hành Động; các Ngài đã chỉ bảo bằng cách nào những hành động thực hiện trong thế giới loài người có thể phụng sự Thiên Ý. Huynh hãy nhớ rằng sự tha thứ khi bị nhục mạ là một trong mười bổn phận mà Luật của Đức Bàn Cổ bắt buộc chúng ta phải theo(1).[v] Huynh hãy nhớ đến lời nói của Đức Phật khi Ngài dạy: “Lấy ân đáp oán cái oán mới tiêu. Lấy oán đáp oán cái oán không dứt”. Huynh cũng nhớ rằng Đức Gia Tô cũng lấy cảm hứng ở tư tưởng ấy khi Ngài nói: “Các con đừng để cho điều ác làm chủ mình, nhưng các con hãy lấy điều thiện mà thắng phục điều ác”. Đó là Con Đường Hành Động. Huynh hãy tha thứ khi bị nhục mạ, hãy mang tình thương yêu mà đáp lại oán thù, hãy ngự trị điều ác bằng điều thiện. Bằng cách đó, huynh sẽ loại bỏ ra ngoài cái yếu tố cá nhân; huynh sẽ không giận dữ nữa khi người ta làm thiệt hại mình; một khi huynh đã loại trừ cái yếu tố cá nhân đi rồi, thì ở lòng huynh, sự giận dữ không còn mang cái hình thức thấp thỏi ấy nữa. Nhưng một thứ giận dữ khác, có tính cách cao thượng hơn có thể còn sót lại. Huynh thấy người ta hành hạ một con vật và huynh bực tức đối với ai đã độc ác như vậy; huynh thấy người ta hà hiếp một kẻ đáng thương và huynh tức giận kẻ hà hiếp. Đó là sự tức giận vô tư kỷ, sự tức giận này cao thượng hơn sự tức giận vì yếu tố cá nhân và là một giai đoạn cần thiết trong sự tiến hóa của nhân loại. Cảm thấy một sự tức giận dối với người làm ác, như vậy còn cao thượng hơn, tốt đẹp hơn một ngàn lần sự thản nhiên lạnh lùng viện cớ rằng sự đau khổ mà người ta phải chịu đựng không gợi lòng thiện cảm của mình. Sự tức giận vô tư kỷ này, với một tính cách cao thượng, thiệt là thanh cao hơn sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đấy chưa phải là cái hình thức cao cả nhất của nó. Đến lượt nó phải được biến dổi thành một tâm tánh tự nhiên khiến cho huynh xử sự công bình đối với kẻ mạnh cũng như đối với kẻ yếu, khiến cho huynh phàn nàn giùm kẻ cường bạo cũng như kẻ bị hà hiếp làm huynh hiểu rằng kẻ cường bạo đã tự làm hại mình, nhiều hơn là làm hại kẻ bị hà hiếp, khiến huynh thương giùm y cũng như thương giùm nạn nhân của y, nó làm cho huynh thương xót và đối xử công bình với kẻ áp chế lẫn kẻ bị áp chế.

Người tinh luyện tật giận dữ đến mức đó đã diệt trừ được sự ác, vì làm chấm dứt sự ác là bổn phận y, nhưng y còn từ bi đối với kẻ làm ác vì kẻ này cũng cần được giúp đỡ và dạy đỡ. Như vậy một sự tức giận muốn trả thù một sự nhục mạ cá nhân trở thành một sự công bình nó chấm dứt mọi điều ác, nó che chở cả kẻ mạnh lẫn kẻ yếu. Đó là sự tinh luyện trong thế giới, của những hành vi, đó là những sự cố gắng hằng ngày nhờ đó mà cái bản tính thấp hèn được tinh luyện để cho sự Hợp Nhất có thể thực hiện được.

2.-TÌNH YÊU

Rồi chúng ta lấy tình yêu làm thí dụ. Thoạt đầu, ta thấy nó ở trong cái hình thức thấp thỏi nhất, thô kệch nhất, đó là dục vọng tầm thường theo thú tánh giữa hai giống, nam và nữ. Cái lòng dục nầy không đếm xỉa gì đến tính nết của người được thương yêu, không kể gì đến cái vẻ đẹp trí thức và đức hạnh, nhưng chỉ trìu mến vẻ đẹp của thể xác, chỉ nhớ tới sự hấp dẫn và thú vui xác thịt. Đó là lòng dục dưới cái hình thức thấp thỏi nhất của nó. Người ta nghĩ đến mình, và chỉ nghĩ đến mình thôi.

Người đi theo Con Đường Hành Động tinh luyện lòng dục này. Y biến đổi nó thành ra thứ tình yêu thúc đẩy y tự hy sinh cho người yêu. Y làm đầy đủ bổn phận gia đình, coi sóc vợ con, và làm đủ mọi việc mà y có thể làm cho vợ con y, bằng cách hy sinh sự vui thích riêng của mình, hy sinh cả những lúc nhàn rỗi cùng sự thỏa mãn riêng tư của mình. Y làm việc để nâng cao tình trạng gia đình để có thể tự y chu cấp cho gia đình những thứ cần thiết. Ở lòng y tình thương yêu không phải chỉ hạn định trong sự tìm kiếm thú vui riêng tư, nhưng là sự cố gắng giúp đỡ những người mà y yêu mến hứng chịu lấy những sự không may hăm dọa họ, để họ được che chở, dung thứ và cứu rỗi. Khi theo Con Đường Hành Động, con người tinh luyện tình thương yêu của mình, lọc sạch hết mọi yếu tố ích kỷ, và cái sự trước kia chỉ là một lòng dục có thú tính đối với người khác giống, nay thành tình yêu của người chồng, của người cha, của người anh cả, của người họ hàng, làm bổn phận mình bằng cách làm việc cho những kẻ mà mình thương yêu, để cho đời sống của họ có thể trở nên êm ấm hơn, sung sướng hơn.

Đến đây mới bắt đầu giai đoạn cuối cùng, mà tình yêu được gột bỏ mọi tính cách vị kỷ và ban rải cho tất cả mọi người. Nó không còn chỉ ban rải trong cái vòng gia đình chật hẹp, nhưng ở mỗi người mà nó gặp, nó trông thấy một kẻ phải giúp đỡ; ở mỗi người đói khát nó trông thấy một huynh đệ phải nuôi dưỡng; ở mỗi người phụ nữ bị ruồng bỏ, nó trông thấy một người em gái phải cứu vớt. Con người được tinh luyện như vậy trở thành người cha, người anh, người bạn của tất cả những kẻ cô độc, không phải vì y thương yêu họ một cách vị kỷ, nhưng vì yêu thương họ trong lý tưởng, và y chỉ tìm cách ban rải tình yêu vì tình yêu, chớ không phải vì sự vui được người ta thương yêu lại. Tình yêu trong sự biểu lộ cao thượng nhất của nó, tình yêu phát sinh ra trong Con Đường Hành Động không đòi hỏi một sự gì để đổi chác lại điều nó đã cho ra. Nó không tìm kiếm sự biết ơn, nó không mong muốn được người ta nhận biết, nó muốn tự dấu mình đi; khi tự trong bóng tối ban rải ra để người ta không nhận thấy, thì nó sung sướng hơn là khi hành động để người ta chú ý đến và khen ngợi.

Sau cùng, tình yêu được tinh luyện hoàn toàn khi nào nó trở thành một thứ Tình Thiêng Liêng, khi nó cho ra là vì bản chất nó là ban rải hạnh phúc, nó không còn đòi hỏi gì cho chính mình nữa, nhưng chỉ tìm cách làm cho kẻ khác được sung sướng.

3.-SỰ THAM LAM

Về tật thèm muốn và tham lam thì cũng thế. Con người làm ra tiền để có thể tự kiếm cho mình những sự sung sướng. Họ mong muốn có tiền để trở nên có thế lực, họ ráng kiếm tiền để tiến lên cao trong xã hội. Thoạt đầu, họ tinh luyện cái hình thức thứ nhất của tật thèm muốn ấy và mong mỏi có tiền bạc để gia đình đước hạnh phúc hơn, để địa vị gia đình được tốt đẹp hơn, để gia đình khỏi bị đau khổ và thiếu thốn, như vậy họ bớt ích kỷ hơn khi trước. Họ còn đi xa hơn nữa và tham vọng tăng thêm phương tiện của mình để có thể dùng vào việc thiện, để có thể làm điều ích lợi trong một phạm vi rộng hơn gia đình, và sau cùng, cũng như ở trường hợp của tình yêu, họ tập cho ra mà không thu nhận cái gì để bù lại. Họ tập muốn có trí thức và của cải, không phải là để giữ lấy, mà để ban rải, không phải để hưởng thụ, mà để phát ra khắp nơi. Bằng cách ấy, tánh ích kỷ được diệt trừ.

Có bao giờ quý huynh tự hỏi rằng tại sao Đấng mà người ta gọi là “Mahadeva” (Đại Thiên Thần)(1)[vi] lại ở môt xứ nóng như lửa. Người ta phải nghĩ rằng thật lạ kỳ mà Đấng Tối Cao là tượng trưng của sự Tinh Khiết lại ở một nơi như thế! Câu nói bóng gió: “miền viêm địa” có ẩn ý về: “Đời sống con người” và tại miền viêm đại nầy là nơi Đức Thượng Đế Shiva ngự trị; tất cả những gì thấp hèn trong đời sống con người đều bị lửa đốt cháy rụi. Nếu Thượng Đế Shiva không ngự nơi nầy, mọi cặn bã của đời sống thế gian còn lại sẽ sình ươn lên, thối nát đi để thành nguyên nhân của mọi sự nguy hại, lan tràn khắp mọi nơi, sinh ra bệnh tật và sự thối tha. Nhưng trên miền viêm địa của Ngài ở, những ngọn lửa của Ngài xuyên qua từ đầu nầy đến đầu kia, tất cả những gì ích kỷ, tất cả những gì tư riêng, tất cả những gì có bản chất thấp hèn đều bị cháy rụi. Người hành giả được tinh luyện do những ngọn lửa hồi sinh ấy, không còn mang dấu của yếu tố cá nhân, vì những ngọn lửa thiêng liêng đã đốt tiêu những dục vọng tấp hèn, và không còn để lại một sự gì có thể nhiễm độc hay là làm cho đau ốm. Vì vậy, người ta gọi Ngài là Đấng Phá hoại, phá hoại mọi sự gì ti tiện, để sự phục sinh có thể thực hiện được, vì lúc nguyên thủy, linh hồn sinh ra tự những ngọn lửa của Ngài, và chính tại nơi “miền viêm địa” ấy mà Chơn linh được tinh luyện,

Theo cách đó, những bước đầu tiên nầy dẫn huynh đến cái địa vị thiệt thọ của người đệ tử, huynh đã tìm Sư Phụ trong Linh Điện, nơi linh thiêng nhất trong mọi nơi linh thiêng, Đức Sư Phụ của Nhân Loại ngự tại nơi đó. Ấy là những nấc thang đầu tiên mà huynh phải trèo, ấy là con đường mà huynh phải theo. Quý huynh là những người sống giữa xã hội, bị những giây chướng ngại ràng buộc, bị chi phối bởi những nhu cầu của đời sống xã hội, chính trị, và tuy vậy, tự nơi đáy lòng, quý huynh vẫn mong ước đến Con Đường Chân Chánh, đến sự hiểu biết thuộc về đời sống vĩnh viễn trường tồn chớ không phải vế đời sống phù du giả tạm. Nếu mỗi người tự dò xét kỹ nơi thâm sâu của lòng mình, thì sẽ tìm thấy ở đấy sự nồng nhiệt muốn học hỏi thêm mãi, muốn sống cao thượng hơn là nếp sống từ trước đến giờ. Huynh có thể hình như quyến luyến sự vật ở thế gian và trìu mến chúng thật tình, do cái bản ngã thấp thỏi của huynh, nhưng trong lòng của mỗi người Ấn Độ chơn chánh chưa hoàn toàn từ bỏ tôn giáo và xứ sở của mình, luôn luôn có một hoài vọng về một lý tưởng cao thượng hơn là cõi đời nầy, một ý muốn dù yếu đuối đến đâu mặc dầu, dù đó chỉ do những tục lệ cổ truyền của dĩ vãng, một ý muốn được trông thấy xứ Ấn Độ trở nên cao quý hơn hiện giờ, và dân tộc Ấn xứng đáng hơn với dĩ vãng của họ. Đó là con đường mà quý huynh phải bắt đầu noi theo. Một quốc gia chỉ có thể cao cả nếu con dân của quốc gia ấy cao cả, một dân tộc không thể nào hùng cường nếu những cá nhân trong dân tộc nghèo hèn và sống một đời ích kỷ. Quý huynh phải khởi hành tự cái điểm của quý huynh đứng hiện giờ, từ cuộc đời mà quý huynh đang sống hiện giờ, và quý huynh sẽ tiến đến gần Đường Đạo bằng cách tuân theo cái lối sống mà tôi vừa tả qua loa cho quý huynh thấy.

Quý huynh hãy để cho tôi chấm dứt bằng cách nhắc cho quý huynh rõ Con Đường Đạo sẽ dẫn ta tới đâu, tuy rằng trong những bài diễn văn sau nầy đọc trước quý huynh, tôi phải cùng quý huynh tiến đến gần nó.

Con Đường Đạo dẫn đến sự Hợp Nhất. Con Đường Hành Động mà chúng ta vừa học dẫn đến sự Hợp Nhất do những sự hành động. Còn các nấc thang khác phải vượt qua. Nhưng trước hết, Hợp Nhất nghĩa là gì? Quý huynh còn nhớ Đức Krishna miêu tả con người đã thoát khỏi những đặc tánh của vật chất, (gunas), đã xứng đáng uống nước cam lồ, trường sinh bất tử, và sẵn sàng hiểu biết Đấng Tối Cao, sẵn sàng hợp nhất với Ngài. Y chỉ biết có một yếu tố duy nhất là những gu na, nhưng y biết trên cao kia còn có cái gì nữa. Y trông thấy những gu na tác động, nhưng khi không có chúng, y cũng không muốn có chúng làm gì, mà khi có chúng, y cũng không xua đuổi chúng. Y vẫn hoàn toàn thăng bằng giữa bạn và thù, hoàn toàn thăng bằng trước sự khen ngợi hay chê bai; tự tin, y coi mọi vật như nhau, y nhìn một cục đất cũng như một đống vàng, nhìn bạn cũng như nhìn thù. Y cư xử với mọi người cùng một cách, vì y đã vượt khỏi những gu na và không thể còn mắc vào những ảo ảnh của chúng nữa. Đó là cái mục đích mà chúng ta đang tìm kiếm. Đó là những nấc thang đầu phải trèo để tới Con Đường Đạo nó dẫn chúng ta lên cao nữa. Khi chưa vượt qua những mức nầy thì không thể có một sự tiến bộ nào cả, nhưng khi người ta vượt khỏi rồi, thì sự Nhập Đạo thiệt thọ càng ngày càng rõ rệt.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh