Tứ Đại Pháp Kinh: Vô Sở Pháp

TỨ ĐẠI PHÁP KINH: VÔ SỞ PHÁP

hữu, hữu vô tất tánh đồng

SỞ y, y-sở cũng tâm tông

PHÁP chẳng bao giờ là pháp cả

mà vô lý tức dung thông

VÔ SỞ PHÁP là pháp chẳng thuộc về tự nhiên, mà cũng chẳng thuộc về nhân duyên.

Chẳng hạn như vô minh được gọi là Pháp thuộc về vô sở. Nếu cho rằng vô minh thuộc về tự nhiên, mà tự nhiên là pháp chẳng sanh, chẳng mất đi, hằng hữu đời đời, thì VÔ MINH sẽ thống trị khắp cùng Càn Khôn Vũ Trụ, sẽ chẳng có ai thành Phật giải thoát và chúng sanh sẽ vĩnh viễn ngu si, ràng buộc trôi lặn mãi mãi trong vòng luân hồi đau khổ vô ngần.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Mua đá năng lượng:

Còn nếu nói rằng VÔ MINH thuộc về nhân duyên, mà nhân duyên là pháp tạo ra, bởi công năng tạo tác tức nhân, và công năng hỗ trợ tức Duyên. Thế thì, cái nhân tức là cái năng lực tạo ra VÔ MINH là cái gì? Nếu đã có “cái tạo ra Vô Minh” thời phải có cái tạo ra “cái tạo ra Vô Minh”? Nếu thế thì con lại thắc mắc thêm, cái gì tạo ra cái ấy, để cái ấy tạo ra "cái tạo ra Vô Minh”?

Nếu thế thời đến vô cùng, cũng không thể thỏa mãn được. Nếu bảo Thượng Ðế tạo ra Vô Minh càng vô lý nữa! Thượng Ðế tượng trưng cho Chơn Lý Tối Thượng, giác ngộ hoàn toàn. Còn Vô Minh tượng trưng cho ngu si, đần độn, mê lầm, mê chấp. Ðã giác ngộ hoàn toàn, thời đâu còn mê lầm nữa mà tạo ra vô minh đặng đánh mất cái giác ngộ được? Khi con đã đắc đạo vô thượng thời ra khỏi vô minh. Khi ra khỏi vô minh con mới thực sự hiểu được trọn vẹn hơn, chớ còn trí phàm che lấp thời khó mà hiểu được chỗ này.

Thế nên, đặt vô minh vào Nhân Duyên Pháp cũng không ổn. Bởi vì nó chẳng do ai tạo ra, cũng chẳng phải tự nhiên mà có.

Do đó, VÔ MINH là "NGUYÊN NGHIỆP ÐỒNG NHẤT", nó đứng đầu trong Thập Nhị Nhân Duyên (Vô minh duyên hành, hành duyên thức...) và đứng trước tiên trong Lục Đạo Hấp Dẫn (vô minh nên bị ngoại vật chi phối, nên mới khởi sinh ý thức tự nguyện đầu thai...).

Nó (Vô Minh) là nghiệp, cái nghiệp mẹ đẻ ra các nghiệp con, nghiệp cháu như tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố, dục gọi chung là thất tình, lục dục, tam độc, thất ác, và hằng hà sa số nghiệp khác, kéo con vào vòng luân hồi sanh tử: sinh, lão, bệnh, tử, đau khổ vô ngần. Vô minh nên mới mê lầm, mê chấp: chấp trược, chấp thanh, chấp thiện, chấp ác, chấp đúng, chấp sai, chấp đẹp, chấp xấu, chấp thương, chấp đoạn, chấp hữu, chấp vô, chấp duy tâm, chấp duy vật. Nhân bàn vô duy vật CHA nhắc lại cho các con rõ:

Duy vật cũng là duy tâm thôi, bởi vì ngoài vật không tâm, ngoài tâm không vật, vật tức tâm, tâm tức vật (chỗ này cao siêu, khi nào về đến ngôi CHA mới hiểu nổi).

Giờ đây, CHA chỉ giảng sơ cho các con có ý niệm mà thôi. Phải chăng khi con tu hành chính là thực hiện các qui luật duy vật biện chứng pháp ở trong con?

Các quy luật ấy là luật mâu thuẫn, luật biến lượng thành chất, luật phủ định và quan trọng nhất là luật phủ định sạch trơn.

Khi luân hồi trong vòng sanh tử, để nhồi quả, trả nghiệp, nếm, chứng nghiệm hết thảy mọi cảnh sắc, mọi khía cạnh, mọi trạng thái, mọi cảm giác... thấm thía với những đau khổ ở cõi trược trần, nảy sinh tư tưởng chán ngán, có ý thức vươn lên tìm đạo tu học. Bài học trược con đã thuộc, thuộc đến phát ớn lạnh xương sống, thuộc đến nổi thấm sâu vào trí não, không lúc nào quên. Giờ đây, con tiến sang bài học Thanh, từ trược tiến sang thanh hủy phá trược đặng tạo dựng thanh, đây không phải là thể hiện luật "Mâu thuẫn" hay sao?

Bởi vì mâu thuẫn trì kéo giữa hai lực trược và thanh giúp cho con nếm, chứng nghiệm được, cái nào làm con nặng nề, tối tăm, đau khổ, và cái nào đưa con đến chỗ nhẹ nhàng, sáng suốt, an lạc. Khi đã phân biệt rồi, con bắt đầu bỏ trược tìm thanh. Sau một thời gian công phu luyện đạo, nhứt là hai pháp môn Lục Tự Di Ðà và Mật Niệm Bát Chánh giúp con thanh lọc bản thể, khai mở sáu luân xa và phát triển bát thức đi dần đến chỗ nhẹ nhàng, an lạc, sáng suốt.

Từ chỗ nặng nề, trong trược biến đổi dần dần đi đến chỗ nhẹ nhàng, sáng suốt, an lạc tức là từ trược chất biến sang thanh chất, đấy không phải là thể hiện của qui luật "biến lượng thành chất" hay sao? Lúc chưa tu trược nhiều thanh ít, khi bắt đầu tu thời các con bớt dần sự nhiễm trược, từ số lượng nhỏ nhất đến số lượng lớn, rồi tiếp tục công phu, công quả, công trình cho nhiều, nhanh tăng thêm mỗi ngày một ít, dần dần bản thể con hoàn toàn thanh nhẹ, sáng suốt an lạc.

Giờ đây, con hoàn toàn làm chủ lấy con, dứt bỏ hẵn trược nghiệp đã lôi kéo làm con đau khổ bấy lâu nay, đây không phải là sự thể hiện của luật "Phủ Ðịnh" hay sao?

Rồi trên con đường tiến hóa, muốn đi đến giải thoát hoàn toàn ra khỏi vô minh, thoát khỏi luân hồi sinh tử, con phải quán tưởng cho vỡ lẽ: Sanh từ đâu đến? Chết đi về đâu? Ngộ được tự tánh vô sinh, tự thể vô tử, tức Niết Bàn tự tại, Thiên Đàng giải thoát, không còn trôi lặn trong vòng luân hồi, sanh, lão, bệnh, tử nữa. Ðây không phải là thể hiện qui luật "Phủ định sạch trơn" hay sao? (Phủ định sạch trơn là phủ định của phủ định, tức Hủy thể của Hủy thể là négation de la négation).

Nhưng khi đã giải thoát hoàn toàn rồi, con không nên an nghĩ ở cõi Niết Bàn (hay Thiên Ðàng cũng vậy) hoài; nó sẽ làm trì trệ sự tiến hóa của con trên con đường trở về hiệp nhứt với chơn lý tối thượng, mà con phải xuống thế, nhiễm trược trở lại để cứu độ chúng sanh, vượt qua luật "Phủ định sạch trơn" của qui luật "biện chứng" đặng chạy theo luật tiến hóa của CHA nghe con!

Xưa kia, Thái tử Tất Ðạt Ða, ngay sau ngộ đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chánh đẳng, chánh giác, thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, nó liền khởi sanh tư tưởng bỏ xác tịch diệt đặng nhập Niết Bàn.

CHA sợ quá, nếu để nó nhập Niết Bàn, thời hạt giống chơn lý bị tuyệt chủng, nên biến hóa thành Vua ở cung Trời Ðại Phạm, hiện đến trước mặt nó, hạ mình đảnh lễ, năn nỉ nó ra mở Ðạo cứu đời cho tròn công quả, nên nó mới chịu từ bỏ ý nghĩ bỏ xác nhập Niết Bàn để xuống thế nhiễm trược trở lại, chịu không biết bao nhiêu tai nạn, khổ ách, lăn mình trong cõi trược trần suốt 49 năm dài đăng đẳng cứu độ dân thế, chuyển bánh xe chánh pháp kỳ giữa, tức Trung Ngươn đó con.

Ðây là cái gương cho các con ngày nay noi theo, nếu con nào đắc quả Niết Bàn kỳ ba này, chớ nảy sinh cái ý "bỏ xác" nhập Niết Bàn mà thiếu phần công quả, thời khó mà tiến nhanh về hiệp nhứt với CHA đặng làm một Ðấng Thượng Ðế toàn năng, toàn giác, phụng sự cho Càn Khôn tiến hóa đời đời để được hằng hữu đời đời.

Các con đã đắc quả Niết Bàn kỳ ba như: Ðỗ Thuần Hậu, Lương Sĩ Hằng đều nảy sinh tư tưởng "bỏ xác tịch diệt" đặng nhập Niết Bàn, đều bị điển CHA đẩy trở xuống đặng cứu độ quần sanh cho tròn công quả, rồi mới được bỏ xác về an hưởng cõi Niết Bàn an lạc.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh