Trước Thềm Thánh Điện: Chương 1. Sự Tinh Luyện

TRƯỚC THỀM THÁNH ĐIỆN: CHƯƠNG 1. SỰ TINH LUYỆN

Nếu tự một cứ điểm trong không gian, chúng ta có thể nhìn theo con đường tấn hóa mà học về lịch sử của các dãy hành tinh theo một quan niệm tưởng tượng, rồi hình dung ra mọi việc, chớ không phải tùy theo những cảnh Hồng trần, Trung giới và Thượng giới của những bầu đó, nếu chúng ta có thể đứng từ bên ngoài mà nhìn ngắm những đám chúng sanh đang tiến tới, đám nhân loại đang tiến hóa, thì hình như chúng ta có thể diễn tả mọi sự kiện giống như một bức họa vậy. Tôi thấy một ngọn núi cao đứng sững giữa không gian, từ dưới chơn núi có một con đường đi lên vòng quanh cho đến đỉnh núi. Con đường nầy gồm có bảy vòng khu ốc. Trong mỗi vòng có bảy trạm nghỉ cho khách hành hương dừng chân trong một thời gian, và ở mỗi trạm nghỉ đó, họ còn phải do một con đường khu ốc [[1]] mà leo lên cao nữa.

Đi theo các vòng khu ốc cho tới tận cùng, chúng ta thấy rõ: theo cách nào con đường đã leo lên đỉnh núi. Nó dẫn dắt đến một tòa Thánh Điện trang nghiêm, một tòa Thánh Điện như làm bằng cẩm thạch trắng, nổi bật, sáng chói và huy hoàng trên nền trời xanh thẳm. Tòa Thánh Điện đó là mục đích của cuộc hành hương, ai vào được trong đó là đã hoàn tất cuộc hành trình của mình, ít nhất là đối với ngọn núi nầy, và nếu họ còn ở trên núi, đó chỉ là với mục đích duy nhất: để giúp đỡ những kẻ đang đi lên mà thôi. Nếu chúng ta nhìn ngắm tòa Thánh Điện sát một bên, nếu chúng ta muốn biết nó được xây cất theo lối nào, chúng ta sẽ thấy tại nơi trung tâm, có một cái Linh Đài, xung quanh có bốn cái sân xếp theo những hình tròn đồng một trung tâm điểm. Những cái sân nầy ở phía trong vòng thành Thánh Điện; có những bức tường ngăn cách sân nầy với sân nọ, và muốn đi từ sân ngoài vào sân trong, người hành hương phải bước qua một cái cửa, cái cửa duy nhất của mỗi bức tường bao quanh sân. Phía ngoài Thánh Điện, có một cái sân thứ năm, đó là vòng ngoài đông khách hành hương hơn ở trong Thánh Điện.

Vậy chúng ta có ngay dưới mắt một bức họa miêu ta sự tấn hóa của nhân loại và con đường mà nòi giống ta đang đi theo và mút con đường là tòa Thánh Điện. Trên đường, rất đông người đang đi lên chậm chạp, chậm chạp đến nỗi hình như mỗi khi họ tiến lên được một bước thì họ lùi lại một bước vậy. Xu hướng chung của toàn thể là đi lên, nhưng họ đi chậm chạp đến nỗi người ta phải khó nhọc lắm mới nhận thấy rằng họ đang tiến. Cái sự tiến hóa không ngừng của nhân loại qua mọi thời đại có vẻ dài dòng và mệt nhọc đến nỗi người ta phải tự hỏi rằng làm sao các khách hành hương lại có can đảm trèo lên hoài trong một thời gian lâu thế. Phải cần đến hàng triệu năm để theo dõi nhân loại đi vòng quanh ngọn núi; muốn theo dõi một khách hành hương duy nhất trên con đường của y thì phải mất nhiều triệu năm khác nữa, và chúng ta thấy rằng hình như người hành hương nầy phải trải qua vô số kiếp luân hồi liên tiếp để mà tiến lên mãi. Chúng ta sẽ mệt mỏi khi nhìn thấy những đám đông ấy tiến lên chậm chạp như thế, từng nấc một trên con đường vòng quanh. Nhìn ngắm họ, chúng ta tự hỏi rằng: “Tại sao họ trèo lên chậm chạp thế? Tại sao họ luôn luôn cố gắng tiến về phía tòa Thánh Điện dựng trên đỉnh núi”.

Khi ta quan sát họ thì dường như họ đi chậm, là vì họ không nhìn thấy mục đích, họ không biết cái phương hướng của cuộc du hành của nòi giống họ. Nếu chúng ta nhận xét riêng biệt vài ba người trong bọn, ta thấy họ luôn luôn rời xa đường lộ và bị nơi nầy nơi kia quyến rũ; thái độ của họ không có gì là nhất định cả. Thay vì tiến thẳng về phía trước như những người bận rộn, họ lại đi lang thang chỗ nầy chỗ kia, giống như những đứa trẻ rời bỏ đường cái để hái một bông hoa hay đuổi theo một con bướm. Dường như trọn cả cuộc đời họ bị lãng phí, và đêm tối đến, khi Tử thần tới trước họ, họ dừng chân một thời gian và tấn hóa rất ít. Hình như sự phát triển về trí thức, dù có chậm chạp đến đâu, cũng không thúc giục họ đi mau hơn được. Những kẻ mà trí khôn vừa mới được thành hình, dường như đang ngủ mê sau mỗi ngày, tức là mỗi kiếp của cuôc đời, thì chỉ tiến hơn được chút ít, nếu mang ra so sánh với cái giai đoạn của ngày vừa qua tức là tiền kiếp, và những ai trí khôn đựơc phát triển khá hơn cũng không đi nhanh hơn và dường như sự tiến bộ của họ rất ít trong mỗi kiếp. Nhìn thấy họ đi lên như vậy, ta phải nản lòng và tự hỏi tại sao họ không ngước mắt nhìn xem con đường sẽ dẫn họ đến đâu. Và dường như cái con đường dài khu ốc đi vòng quanh núi không phải là con đường duy nhất dắt đến Sân Ngoài của tòa Thánh Điện, cái sân đầu tiên nơi đó đôi ba người dẫn đầu cuộc tấn hóa đã vào được. Vì khi nhìn kỹ, chúng ta thấy có nhiều điểm trên con đường khu ốc do đó người ta có thể đi đến Sân Ngoài, bằng cách theo những con đường tắt, ngắn hơn, không đi vòng quanh núi, mà đi thẳng lên đỉnh núi. Người hành hương có tấm lòng can đảm, tay chân cứng cát, có thể chọn con đường tắt nầy. Và nếu chúng ta tìm cách hiểu tại sao một số người đã đi đến Sân Ngoài nhanh chóng hơn đồng loại của họ, thì ta sẽ thấy rằng họ sẽ rời bỏ con đường dài để lần đầu tiên dấn bước trên con đường tắt khi lần thứ nhứt họ nhìn thấy được một ánh sáng tự nơi Thánh Điện xẹt ra. Vì Tòa Thánh Điện trắng ngần đứng trên đỉnh núi hằng phát ra những tia sáng chiếu rọi xuống sườn núi. Thỉnh thoảng, một khách lữ hành không mải mê nhìn những con bướm và những hòn sỏi trên đường nữa thì tia sáng dường như chiếu vào mắt y. Y ngửng đầu về phía tòa Thánh Điện, y nhìn thấy nó một chốc lát, và sau cái nhìn thoáng qua ban đầu ấy, thì y không còn giống như trước nữa. Dù chỉ trong chốc lát, y cũng đã nhìn nhận ra được một mục đích, một cứu cánh; y đã thấy thoáng qua cái đỉnh núi mà y muốn tiến đến, y đã thấy con đường tắt dốc hiểm nhưng ngắn hơn không biết bao nhiêu, nó vượt ngay lên sườn núi và dẫn đến chót đỉnh trên đó tòa Thánh Điện đang chiếu sáng rực rỡ.

Và ngay cái lúc linh hồn nhìn nhận được mục đích phải đạt được, ngay cái lúc nó hiểu biết, trong một tia trực giác chớp nhoáng, rằng thay vì con đường dài xoay quanh trái núi và theo hình khu ốc nhiều lần, có một con đường tắt dẫn đến mục đích, - trong cái lúc giác ngộ chớp nhoáng nầy, linh hồn còn hiểu thêm rằng con đường tắt có một danh từ, là Phụng Sự và tất cả những ai đi theo con đường rút ngắn đó đều phải chui qua một cái cửa có ghi những chữ vàng rực rỡ sau đây: “Phụng Sự Nhân Loại”. Linh hồn mà chúng ta theo dõi, lúc đó hiểu rằng trước khi có thể đi vào Sân Ngoài của Thánh Điện, y phải đi qua cái cửa đó và nhận định rằng: người ta sống là để phụng sự chớ không phải là để làm thỏa mãn những dục vọng ích kỷ, và cái phương pháp duy nhất để tiến lên nhanh hơn, là tiến lên để làm điều ích lợi cho những ai đang chậm bước, ngõ hầu tòa Thánh Điện có thể ban phát cho những khách hành hương đi theo con đường dài một sự giúp đỡ có hiệu lực hơn là những trường hợp khác.

Như tôi đã nói, đó chỉ là một chớp nhoáng, một sự thấy thoáng qua mà thôi, rồi lại tan mất ngay đi, vì chỉ có một tia sáng tự ngọn núi phóng ra rọi vào mắt mà thôi. Và suốt dọc đường ngoằn ngoèo có rải rác không biết bao nhiêu sự vật quyến rũ để thu hút linh hồn một lần nữa. Nhưng một khi đã nhìn thấy được ánh sáng rồi, thì rất dễ mà nhìn thấy nó lại một lần nữa. Một khi đã nhìn thấy thoáng qua cái mục đích phải đạt cho được, một khi đã hiểu rõ cái bổn phận và cái khả năng phụng sự, mặc dầu sự hiểu biết này chỉ là nhứt thời trong ánh sáng trực giác thì còn lại ở tận đáy lòng một ý muốn đi theo con đường ngắn nhứt và tìm lối thẳng tiến lên Sân Ngoài Thánh Điện. Sau khi đã nhìn thấy như thế lần thứ nhứt, rồi thỉnh thoảng tia sáng đó cũng nhấp nháy hiện ra. Từ ngày này sang ngày khác trong cuộc leo núi dài thăm thẳm, tia sáng cứ xuất hiện mãi, có lẽ mỗi ngày một rực rỡ thêm lên. Và chúng ta thấy những linh hồn này bắt đầu đi lên một cách vững chắc hơn đồng loại của họ. Tuy họ còn đi vòng quanh trái núi, họ lập hạnh (trau dồi tánh nết) một cách đều đặn hơn và hiến mình cho tôn giáo một cách quả quyết hơn, tôn giáo này cố gắng chỉ dẫn cho họ thấy rằng họ có thể lên tới Thánh Điện bằng cách nào.

Những linh hồn nào đã thoáng nhìn thấy cái mục đích có thể đạt được và tự biết mình có xu hướng để theo con đường nầy nhiều hay ít, thì nổi bật lên giữa đám đồng loại do tánh siêng năng và chú ý, và chẳng bao lâu họ sẽ dẫn đầu cái đám đông còn rải rác trên đường. Họ đi nhanh hơn vì họ tiến một cách quả quyết hơn, vì họ đã bắt đầu hiểu cái phương hướng mà họ đang theo, vì vậy nên họ cố gắng – tuy lúc đầu còn bất toàn – để tiến lên, nghĩa là để sống theo một mục đích nhất định. Và tuy mới vừa hiểu được rằng kết cuộc mục đích đó sẽ là gì – (vì họ có một trực giác mập mờ về điều nầy hơn là một sự hiểu biết rõ ràng) – họ cũng không còn đi lang thang rày đây mai đó nữa, không còn để cho ngày mai cướp mất cái gì mà họ đã thu thập được ngày hôm nay. Từ nay, họ không tiến lên trên con đường vòng quanh, và trong mỗi ngày tức là mỗi kiếp của cuộc đời, họ lại trèo lên nhanh hơn một chút, cho tới khi họ rõ ràng vượt hẳn đám đông nhờ đời sống tinh thần của họ, nhờ những tánh tốt của họ, và nhờ ý muốn luôn luôn giúp đỡ đồng loại của họ. Những linh hồn nầy, tuy hãy còn đi trên con đường vòng quanh, nhưng đang mau tiến bước lên đỉnh núi và bắt đầu nỗ lực một cách rõ ràng hơn. Họ cố gắng giúp đỡ đồng loại và giơ bàn tay dịu hiền ra để lôi kéo những kẻ xung quanh tiến bước nhanh hơn.

Chẳng bao lâu, trong khi họ đang bước tới cùng với những linh hồn mà họ yêu mến và giúp đỡ, họ sẽ thấy có một hình dáng rất đẹp đẽ - tuy mới nhìn qua thì có vẻ như nghiêm khắc – đang tiến đến để gặp họ. Hình dáng nầy bắt đầu nói nhỏ với họ về một con đường ngắn hơn và chỉ dẫn cho họ những điều kiện của một sự tấn bộ nhanh chóng hơn. Hình dáng đó chính là sự Giác Ngộ vậy. Sự giác ngộ nầy là chị em với hai thế lực phổ độ mà chúng ta đã nói đến; ấy là Phụng Sự Nhận Loại và Tôn giáo giúp đỡ những linh hồn trong sự trau dồi đức hạnh. Giác Ngộ, Phụng Sự và Tôn giáo, ba ảnh hưởng nầy chung nhau dìu dắt bước đường của linh hồn cho đến khi một buổi bình minh sáng lạng hơn hiện ra với một sự hiểu biết đầy đủ hơn. Và lúc đó chư huynh thấy linh hồn bắt đầu có một quan niệm rõ ràng về mục đích của sự tiến hóa của mình. Nó không phải mơ mộng đến tương lai mà thôi, mà nó rán làm cho giấc mơ nầy trở thành cái mục đích nhất định mà nó cố gắng đạt cho được, và nó công nhận rằng Phụng Sự là định luật của đời sống.

Và giờ đây, tuân theo một sự kích động tự nhiên, linh hồn thì thầm thốt lên một lời phát nguyện thành thực, là sẽ giúp đỡ nòi giống tiến hóa. Đó là ước nguyện đầu tiên của nó, lời ước nguyện một ngày kia sẽ hiến mình để phụng sự nhân loại. Tuy nhiên giờ chưa phải là một lời thành tâm ước nguyện, nhưng sau nầy linh hồn sẽ thốt lên một lời ước nguyện rõ rệt như thế. Trong một cuốn Kinh Thánh, người ta có chép rằng một vị trong các Đấng Cao Cả đã theo con đường ngắn nhất, đã đi trên con đường khó khăn hiểm trở nhất, và Ngài đã vượt qua con đường nầy một cách nhanh chóng đến nỗi Ngài bỏ lại phía sau Ngài toàn thể nhân loại và Ngài tiến bước một mình. Gương Ngài bảo đảm rằng trong tương lai nhân loại sẽ có thể thành đạo như Ngài; Ngài giống như bông lúa sớm kết hạt của vụ gặt: người ta ghi chép Đấng Cao Cả nầy đã mang danh hiệu là Đức Phật (đã hoàn tất lời nguyện ước của mình từ Đại kiếp nầy sang Đại kiếp khác). Vì sự hoàn tất công nghiệp của Ngài phải khởi đầu bằng lời ước nguyện là phụng sự. Lời nguyện ước đầu tiên của linh hồn ràng buộc nó với những Đấng Cao Cả đã đi trước nó, và như thế tạo thành một sợi dây lôi cuốn nó vào con đường thử thách, đường nầy dẫn đến Sân Ngoài, và khi đã đi xuyên qua khoảng Sân Ngoài ấy rồi thì sẽ đi đến chính Thềm Thánh Điện.

Sau nhiều kiếp cần lao và gắng sức, linh hồn càng ngày càng tinh tấn, càng cao thượng và càng khôn ngoan hơn, từ kiếp này sang kiếp khác và sau cùng nó mới thốt ra một cách rõ ràng và minh bạch, thốt ra cái ý muốn của mình, ý muốn nầy bây giờ đã trở nên mãnh liệt. Và khi mà ý muốn biểu lộ ra như một sự quyết định hẳn hòi và đích xác chớ không còn là một tiếng nói thì thầm tỏ bày hoài vọng nữa, khi ý muốn là một lời nói sáng tạo ban hành mệnh lệnh, thì lúc đó nó cả quyết đến gõ cửa Sân Ngoài, và không ai có thể hiểu lầm tiếng gõ cửa đó, vì nó diễn tả cái mãnh lực của một linh hồn nhất định chiến thắng, một linh hồn khá thông minh nên hiểu được cái tầm rộng lớn bao la bát ngát của công việc định làm. Vì bây giờ đã đi đến thềm của Sân Ngoài, linh hồn biết rõ cái việc mà nó đang rán sức hoàn thành, nó hiểu rằng sự khó khăn đang chờ đợi nó thật là phi thường. Ra khỏi nhân loại, đó là cái điều mà nó tự trù định làm, ra khỏi cái đám nhân loại đang tiếp tục đi lên mãi theo vòng quanh núi trong vô số thế kỷ, cứ đi như vậy từ thế giới nầy sang thế giới khác, xung quanh dãy hành tinh, và cuộc hành trình cứ tiếp tục như thế mãi mãi cho đến khi mỏi mệt chán chê. Cái linh hồn anh dũng đang gõ cửa Sân Ngoài muốn trèo lên núi trong vài ba kiếp ngắn ngủi, xông pha lên những sườn núi dốc hiểm nhất, nó muốn vượt từng bước một cái con đường tắt dẫn ngay đến trung tâm Thánh Điện. Trong một khoảng thời gian gồm vài chục kiếp, linh hồn muốn hoàn tất cái công việc thường đòi hỏi ở nhân loại vô số kiếp Luân hồi, cái công việc phi thường cho đến nỗi chỉ nhìn ngắm nó ta cũng thấy choáng váng mặt mày rồi, một công việc anh dũng đến nỗi người ta có thể nói rằng linh hồn nào muốn làm việc đó thì tức là đã nhận định được cái bản chất thiêng liêng của mình, cái Uy Quyền Tuyệt Đối ẩn tàng nơi mình. Muốn thành Đạo, nhân loại không những chỉ trải qua cái bản chất thiêng liêng của mình, cái Uy Quyền Tuyệt Đối ẩn tàng nơi mình. Muốn thành Đạo, nhân loại không những chỉ phải trải qua cái thời gian sống trên địa cầu nầy, mà còn phải trải qua những cuộc tuần hoàn [[2]] vị lai nữa; vậy mà nay linh hồn muốn hoàn thành trọn vẹn cái công việc vĩ đại đó trong vài ba kiếp thôi, bắt đầu từ cái điểm tiến hóa của nhân loại hiện nay; đó thật là một công việc vô cùng khó khăn, một công việc chỉ có Thượng Đế mới làm nổi. Sự hoàn tất một công việc vĩ đại như thế chỉ rõ cho ta thấy rằng Uy quyền của Thượng Đế đang tự hoàn thành trong tâm con người.

Như vậy khi linh hồn gõ cửa Đạo, thì cửa Đạo mở ra cho linh hồn bước vào, và nó tiến đến Sân Ngoài. Bây giờ nó phải vượt qua Sân Ngoài từng bước một mà tiến đến cái cửa đầu tiên dẫn đến chính Thánh Điện, cái cửa đầu tiên trong số bốn cái cửa, mỗi cái cửa là biểu hiệu của một lần Đại Điểm Đạo. Không một linh hồn nào có thể vượt qua ngưỡng cửa đó nếu không vĩnh viễn hiến mình cho Thượng Đế, nếu nó vẫn còn quyến luyến những sự vật phù du của cõi trần đương bao vây nó. Vì một khi đã vượt qua ngưỡng cửa của Thánh Điện rồi thì linh hồn không bao giờ đi trở ra ngoài nữa. Linh hồn đã vượt qua khỏi cái cửa đầu tiên của những vòng trong dẫn dắt đến Trung tâm Thánh Điện thì linh hồn không bao giờ lùi lại. Nó đã lựa chọn cái phần của nó trong những thế kỷ vị lai, nó đã đi vào cái nơi chốn mà không ai lại quay trở ra một khi đã bước chân tới đó. Vậy sự Đại Điểm Đạo lần thứ nhứt được cử hành ngay ở trong Thánh Điện. Nhưng linh hồn mà ta đang theo dõi đây chỉ mới bắt đầu chuẩn bị thôi. Ở Sân Ngoài, nó sửa soạn, trong những kiếp vị lai, để leo lên bảy nấc thang dẫn đến cai cửa thứ nhất. Tới đó rồi, nó phải đợi người ta cho phép nó bước qua ngưỡng cửa của chính Thánh Điện.

Vậy Sân Ngoài, nhiệm vụ của nó là gì? Trong những kiếp mà nó sống ở đó, nó phải sống theo lối nào để xứng đáng được gõ cửa Thánh Điện. Đó là cái đề tài đang chờ đợi chúng ta; để trình bày đề tài này cùng chư huynh, tôi không quản công lao khó nhọc, dù chỉ có một hay hai người nơi đây thật sự có đủ khả năng lợi dụng được buổi nói chuyện này. Vì thưa chư huynh, tôi đã biết quá rõ ràng rằng: trong khi tôi miêu tả Sân Ngoài, sẽ có những điều khó khăn và không hứng thú chút nào đối với chư huynh. Chỉ việc tìm thấy con đường dẫn đến Sân Ngoài cũng là một điều khó khăn quá rồi cho thí sanh cố gắng để thực hành đạo lý và trau dồi tánh tốt khiến cho linh hồn có thể gõ cửa của cấp ngoài của Sân Ngoài bao vây Thánh Điện, đó cũng là một công việc rất nhọc nhằn; vì thế cho nên những ai được vào nơi đó đều đã tiến bộ nhiều trong dĩ vãng rồi. Vậy dĩ nhiên, và có thể chắc chắn là trong nhóm chư huynh đây, có những người không ưa thích cái lối sống mà tôi sẽ miêu tả, và rất ít người nhận định được mục đích và lý do của đời sống của mình. Chư huynh sẽ nhớ điều này; chỉ riêng những ai đã trọn vẹn hiến mình để phụng sự nhân loại mới được vào Sân Ngoài. Họ đã cho ra tất cả mà không đòi hỏi trở lại một đặc ân nào, ngoài cái đặc ân được phụng sự kẻ khác. Họ đã nhận định rõ ràng được cái tính cách phù du của sự vật hồng trần và đã mạnh bạo nhận lãnh cái nhiệm vụ mà họ muốn làm. Họ đã quay lưng không nhìn về phía những con đường dẫy đầy hoa thơm cỏ lạ chằng chịt với nhau leo quanh trên sườn núi và đã quyết định trèo thẳng ngay lên đỉnh núi, mặc dầu khó nhọc đến đâu, mặc dầu phải ra công gắng sức trong những kiếp đầu thai liên tiếp nhau một cách mau chóng. Ở Sân Ngoài, phải cố gắng, cố gắng rất nhiều, vì đó là nơi mà ta phải làm xong nhiều việc trong một thời gian ngắn.

Những sự phân tích trong đề tài vốn của tôi tự tiện đặt ra và không phải là những cấp bậc nối tiếp nhau khi người ta đi băng qua Sân Ngoài. Ta phải nhìn xét tất cả những giai đoạn một lượt với nhau và phải làm không ngừng cái công việc của mỗi giai đoạn. Đó là nhiều sự luyện tập phải làm tất cả trong một lúc, và nếu tôi phải chia chúng ta thành từng giai đoạn thì đấy là để có thể trình bày đề tài một cách rõ ràng mà thôi. Tôi đã cho những giai đoạn đó những danh từ sau đây: Sự Tinh Luyện – Sự Tinh Luyện Cái Trí – Sự Lập Hạnh – Khoa Luyện Kim Tinh Thần và Trước Thềm Thánh Điện. Một lần nữa, chúng ta không nên coi công việc phân chia những giai đoạn nầy như là riêng biệt. Phải làm tất cả những việc nầy cùng trong một lúc; phải cố gắng mãi mãi không ngừng; và linh hồn đã đi đến Sân Ngoài sẽ ra sức làm nhiệm vụ của mình trong mỗi kiếp ở đó. Đó là những bổn phận mà nó phải làm xong, ít nhất là một phần, trước khi dám trình diện tại cửa Thánh Điện. Nếu tôi lần lượt giải riêng về những bổn phận nầy, hết cái nọ đến cái kia, ấy là để làm cho người ta hiểu chúng một cách rõ ràng hơn mà thôi. Ngoài ra, xin chư huynh biết cho rằng muốn đi đến ngưỡng cửa của sự Điểm Đạo lần thứ nhất ta không cần phải làm trọn vẹn hay đầy đủ những bổn phận đó. Nhưng cần phải đã làm được một phần nào những bổn phận ấy, linh hồn phải tận lực làm việc đó một cách hữu hiệu, có kết quả; nó phải hiểu cái công việc cần phải hoàn thành và chuyên tâm sốt sắng làm việc ấy. Khi mà công việc được hoàn thành một cách trọn vẹn thì linh hồn đã vào được Trung tâm Thánh Điện rồi.

*

* *

Cái công việc đầu tiên mà linh hồn phải làm trong Sân Ngoài là Sự Tinh Luyện, tinh luyện cái bản thể thấp hèn cho đến mức làm cho tất cả những bộ phận của nó đều rung động điều hòa một cách tuyệt đối với Chơn Nhơn cao cả. Phải tinh luyện tất cả cái gì thuộc về cái phần giả tạm của con người, tất cả những gì mà ta gọi là bản ngã, tất cả cái đại thể gồm những tánh và những nét đặc biệt không trường tồn mà con người đã thu thập xung quanh mình trong vô số kiếp sống. (Nơi đây, tôi muốn nói những tánh nết, những sự kiện bên ngoài, chúng bao bọc linh hồn, tất cả những lớp y phục mà linh hồn tự khoác lên mình và giữ lấy kiếp này sang kiếp khác, tất cả những gì mà linh hồn gặp lại mỗi khi đầu thai xuống trần, tất cả những gì mà con người thiệt thọ thu thập chung quanh mình trong đời sống hồng trần để rút lấy cái tinh hoa và đồng hóa nó đặng biến nó ra thành phần của Chơn Nhơn luôn luôn tiến tới mãi vô cùng vô tận).

Ông Sinnett có dùng một câu miêu tả rất đúng cái vị trí của linh hồn ở ngay vào cái lúc mà ta đang nói đến bây giờ đây, cái vị trí của linh hồn vừa tự ý bước vào Sân Ngoài và nhận định được cái công việc phải làm. Ông nói: “Linh hồn trở thành chư hầu của Chơn Nhơn cao cả” – từ ngữ này có ích cho ta nếu ta hiểu rõ nó. Nó có nghĩa là ta nhứt quyết từ bỏ mọi điều phù du nhất thời, tất cả những gì thuộc về bản ngã thấp hèn. Tất cả những kiếp sống ở cõi trần này sẽ chỉ dùng để gom góp những vật liệu hữu ích và truyền đạt chúng lên Chơn Nhơn cao cả. Chơn Nhơn lớn và phát triển nhờ những điều mà bản thể thấp hèn thu thập được. Khi bản ngã thấp hèn hiểu biết được sự hợp nhứt khẩn yếu của nó với Chơn Nhơn cao cả hơn đang ngự trị nó; khi nó biết lý do duy nhất của nó sanh ra ở cõi trần này là để làm cho một dụng cụ hoạt động nhứt thời với mục đích là thu thập những gì mà Chơn Nhơn trường tồn bất diệt cần dùng đến – thì như tôi đã nói – cái bản ngã thấp hèn nhứt định rằng trọn cả kiếp sống của nó ở cõi trần này chỉ để dành làm cái công việc đó mà thôi. Nó hiểu rằng mục đích đời sống của nó chỉ là để gom góp những vật liệu để sau này mang lên hiến dâng cho Chơn Nhơn là tinh hoa thiệt thọ của bản thể nó, những vật liệu nầy sẽ dự phần vào sự phát triển của Chơn Nhơn trường tồn bất diệt cao cả hơn phàm nhơn của một kiếp.

Vậy thì “trở thành Chư Hầu của Chơn Nhơn cao cả” có nghĩa là bản ngã thấp hèn phải tự nhìn nhận có bổn phận phụng sự chủ nhân ông của mình, từ nay sẽ không sống cho mình mà sống để phụng sự cái gì trường tồn bất diệt. Vậy thì đời sống của con người ở Sân Ngoài là hết lòng phụng sự trung thành; tất cả công việc của y sẽ hiến dâng cho Chơn Nhơn cao cả trường tồn bất diệt; đời sống của Chơn Nhơn càng ngày càng mở mang rực rỡ, nhờ sự tận tâm chơn thành và hồn nhiên của bản ngã là vị sứ giả mà Chơn Nhơn đã gởi ra ngoại giới.

Trong cuốn sách này, tôi tỉ dụ rằng con người đã hoàn thành xong xả cái công việc mà những Thánh Kinh toàn cầu coi như là sự tự chuẩn bị để tìm kiếm linh hồn mình một cách tích cực. Chắc chư huynh cũng nhớ là trong một cuốn kinh Upanishad có viết rằng ai muốn tìm thấy linh hồn mình thì trước hết phải rời bỏ con đường tội lỗi. Linh hồn mà ta quan sát đã có làm công việc này trước khi bước vào Sân Ngoài. Vì những ai vào đó rồi thì không bị những sự vật tầm thường của hồng trần quyến rũ nữa. Họ đã vượt qua chúng. Vì vậy nên kiếp họ bước vào Sân Ngoài, ít nhất họ cũng đã lìa xa “Con đường tội lỗi” và không còn ưa thích nó nữa. Nếu nhỡ ra ta thấy họ đi trên con đường đó, thì ấy là hậu quả của một sự sa ngã bất ngờ và sẽ được sửa chữa lại ngay tức khắc. Họ sanh ra đời với một lương tâm không ưa thích tội lỗi, nếu cơ hội làm lành đến với họ trước nhất. Và tuy lương tâm họ, vì chưa có được một sự kinh nghiệm hoàn toàn, nên còn có thể bị lầm lạc trong sự lựa chọn trước khi và cả sau khi vào Sân Ngoài, nhưng nó vẫn nồng nhiệt muốn chọn điều lành bất cứ lúc nào.

Bản ngã thấp hèn không còn có thể tự mình không tuân theo mạng lệnh Chơn Nhơn, vì ai làm trái mệnh lệnh thì không bao giờ được vào Sân Ngoài và còn lâu lắm mới bước vào đó được. Những linh hồn được lựa chọn vào đó ít nhất cũng đã cố gắng tự hướng về điều thiện và muốn vâng lời của Tiếng nói nội tâm nó khuyên nhủ phải làm lành, và không muốn cố ý cãi lại. Những linh hồn này sinh ra đời sau khi đã vượt qua cái quãng đường dài dốc đứng và thành thực muốn làm điều thiện cao cả nhất mà họ có thể quan niệm được.

Bây giờ, linh hồn phải chiến đấu với những sự quyến rũ tế nhị hơn, những sự quyến rũ đang đợi nó trong Sân Ngoài. Đó không phải là những sự quyến rũ thô bỉ của thế gian, mà lại là những sự quyến rũ sâu sắc hơn, thấm thía hơn, chúng tấn công linh hồn trong khi nó phải vượt qua nhiều kiếp mau lẹ và phải hối hả leo lên sườn núi lớn. Linh hồn không còn có thì giờ do dự trốn tránh trước sự quyến rũ, không có thì giờ lập hạnh bồi đức dần dần. Khi mà nó bước chân vào Thánh Điện, dù mới ở Sân Ngoài, nó đã tự cảm thấy rằng nó phải tiến lên mãi, không ngừng, không nghỉ, phải leo lên sườn núi không bao giờ dừng bước. Và nơi đây, nó bị tấn công tứ phía bởi những nỗi khó khăn và những sự quyến rũ thuộc về lý trí, bởi lòng tham vọng, bởi tánh kiêu căng của cái trí, bởi sự hãnh diện về những điều mà nó đã thâu thập được và cho rằng những điều đã thực hiện được là do công lao nó. Ngoài cái sự tấn công đáng sợ của lòng tham vọng, ngoài cái bản tính kiêu ngạo của con người muốn chiếm giữ tất cả và muốn xây dựng một bức tường giữa mình và kẻ dưới, linh hồn còn muốn hiểu biết, hiểu biết cho riêng mình, hiểu biết để chiếm hữu, để lấy sự thông thái của mình mà chống lại mọi người, chớ không phải để làm điều hữu ích cho họ. Cái cảm giác này được ẩn nấp dưới lớp mặt nạ của lòng yêu mến khoa học vì khoa học, yêu mến chơn lý vì chơn lý, và thường thường linh hồn phát giác ra rằng, khi nó nhìn thấy một cách rõ ràng và thấu đáo, thì cái điều mà người ta tưởng rằng đó là lòng yêu mến khoa học một cách vô tư, thật ra chỉ là cái ý muốn xa cách đồng loại, ý muốn có được cái điều mà họ không có, được hưởng những lợi lộc mà họ không được chia sớt. Tính chia rẽ, sự kiêu căng của tính chia rẽ, ý muốn được đứng riêng biệt, được học hỏi, được phát triển, được thực hiện để chiếm hữu, đó là một trong những sự nguy hiểm ghê gớm nhất đe dọa linh hồn đang phát triển. Đó là một trong những sự cám dỗ nó chờ đợi linh hồn khi linh hồn vừa bước qua khỏi cửa Sân Ngoài. Vì linh hồn sẽ thấy rằng mình có thể giơ tay nắm lấy sự hiểu biết và có ý muốn chiếm lấy sự hiểu biết này, nó sẽ thấy quyền năng ở trước mặt và muốn có quyền năng và như vậy, hoàn toàn không phải chỉ vì muốn phụng sự mà cũng có một phần là vì những điều này sẽ làm cho linh hồn được lớn thêm. Linh hồn thấy cần phải xây một bức tường xung quanh mình để thọ hưởng những điều đã thực hiện được. Nhưng chẳng bao lâu linh hồn hiểu được rằng nếu một ngày kia, nó muốn vượt qua khỏi Sân Ngoài để đi đến cái cửa lớn đang chói sáng ở phía đàng xa thì nó phải lìa bỏ tất cả lòng tham vọng và tánh kiêu căng cùng là cái ý muốn thu thập kiến thức cho riêng mình; nói tóm lại, phải lìa bỏ mọi điều gì chia rẽ nó với các linh hồn khác, anh em với nó. Lúc đó, nó bắt đầu tinh luyện bản chất cái trí của nó, nó xét kỹ cái lý do thúc đầy nó cố gắng, cái lý do thúc đẩy nó hoạt động. Nó bắt đầu xét mình một cách kỹ lưỡng dưới anh sáng của đời sống tinh thần đang chói rạng nơi Trung tâm Thánh Điện và soi sáng Sân Ngoài. Dưới ảnh hưởng của ánh sáng ấy, mọi bóng tối trở nên dầy đặc hơn, và linh hồn bắt đầu nhận thấy rằng dường như những sự vật đã chiếu sáng ở cõi hạ giới, thật ra, chỉ là những cái bóng, và tự chúng, chúng không có ánh sáng thiệt thọ. Lúc đó, linh hồn hiểu được rằng “cái bản chất của dục vọng của nó mang theo mình pha lẫn với trí thức cần phải được lọc sạch hết mọi vết nhơ của bản ngã riêng tư”. Linh hồn quả quyết bắt đầu tự tinh luyện, tự ý bắt đầu làm việc một cách cẩn thận sáng suốt, cố gắng không ngừng để loại trừ tất cả những gì ngăn cách linh hồn, bất luận dù bằng cách nào, với những kẻ ở mức dưới đang theo vết chân nó, cũng như với những Đấng Cao Cả hơn đã đi trước nó. Thật vậy đây là điều mà linh hồn học được, và đây cũng là một trong những bài học cao siêu ở Sân Ngoài, nếu một ngày kia nó muốn nhìn thấy cửa Thánh Điện mở rộng ra thì nó phải phá vỡ những bức tường ngăn cách nó với những huynh để của nó ở phía dưới. Chỉ lúc đó thì những bức tường ngăn cách nó với những Vị Cao Cả bỗng nhiên tan mất đi. Vì cái cửa mà ta phải vượt qua chỉ tự mở rộng ra trước người nào xin phép bước vào nếu y đã đập tan được những bức tường của chính bản ngã y dựng lên và ưng thuận chia sớt với mọi người cái kết quả những sự cố gắng của y.

Vậy y bắt đầu tinh luyện những dục vọng và điều khiển bản ngã thấp hèn của y để xóa bỏ mọi vết nhơ. Y tự tinh luyện bằng cách nào? Y không được tiêu diệt một cái gì cả, vì những gì mà y đã thu thập được trong cuộc hành hương của mình, đó chính là những kinh nghiệm và kinh nghiệm đã được biến hóa thành ra khả năng và mãnh lực; và giờ đây y đang cần dùng đến tất cả sự dũng mãnh của mình; nếu y tiêu diệt nó đi thì chẳng hóa ra y dại dột và vụng về lắm sao. Vậy khi đi trình diện, y phải mang theo tất cả năng lực của mình, những năng lực đã được tinh luyện chớ không phải những năng lực ô trược. Nhưng phải làm cách nào để tinh luyện chúng. Tiêu diệt chúng đi là một công việc dễ dàng biết bao. Xóa bỏ một vài tính tình mà y có, như thế sẽ là một sự thử thách dễ dàng hơn đối với lòng kiên nhẫn của y. Dường như y sẽ vui lòng tấn công chúng, tiêu hủy chúng để được yên thân một lần chót.

Nhưng người ta không thể đi vào Thánh Điện theo lối ấy được. Y phải mang đến đó như là lễ vật đầu tiên tất cả những gì đã thu thập được trong dĩ vãng, tất cả những gì đã biến hóa thành ra khả năng và mãnh lực. Đó là sự Hy sinh phải hiến dâng tự nơi ngưỡng cửa của sự Điểm Đạo. Không thể vào đấy với hai bàn tay trắng. Người chí nguyện phải mang tới đó nguyên vẹn tất cả. . . những gì đã gặt hái được trong đời sống hồng trần. Đã không được phép tiêu diệt thì phải lo việc tinh luyện khó khăn hơn, gìn giữ cái tinh hoa của mọi tính tình và đồng thời loại trừ cái gì có tánh cách cá nhân. Tất cả những bài học mà con người học được về tánh tốt và về tánh xấu, chính là tổng số kinh nghiệm gặt hái được trong dĩ vãng, trong cuộc hành hương. Y sẽ gìn giữ cái tinh hoa của mỗi tánh tình, vì đó là kết quả của tất cả sự tấn bộ của y, nhưng y sẽ mang nó đến trước bàn thờ tinh khiết như vàng ròng không hề lẫn lộn một chút cặn bã nào hết.

Ta hãy xem xét riêng rẽ một vài tánh ấy để biết rõ sự tinh luyện là gì. Một khi đã hiểu được cái cách áp dụng phương pháp này vào một hai tánh nhất định rồi thì chư huynh có thể tùy ý mình mà suy nghĩ để xử dụng nó trong những trường hợp khác. Việc học cái phương pháp tinh luyện này là một trong những bài học quan trọng hơn hết.

Thoạt đầu tôi xin nói với chư huynh về một sức mạnh mãnh liệt có ở nơi mỗi người. Nó đã được biểu lộ ra trong những giai đoạn đầu tiên khi ta mới phát triển, nó đã theo ta khi ta tiến hóa, và đây là lúc nó phải được tinh luyện lần cuối cùng. Ở trình độ thấp nhất của nó, sức mạnh này là sự tức giận, sự phẫn nộ, một sức mạnh ghê gớm phát triển nơi con người, nhờ nó con người mới tạo được cho mình một chỗ đứng trong đời sống và có khi vượt được mọi nỗi khó khăn; nó là một năng lực kinh khủng của linh hồn, nó đột nhập vào bản ngã thấp hèn và tự tạo cho mình một con đường đi bằng cách phá tan mọi sự trở ngại. Sự tức giận là một năng lực vô trật tự và vì vậy mà nó có tính cách phá hoại, trong những giai đoạn đầu tiên khi con người mới phát triển, khi y chưa học được cách điều khiển và làm chủ nó. Nó là một sức mạnh ghê gớm, và vì nó là một sức mạnh nên ta phải nhìn nhận giá trị của nó, dù khi tác động ở cõi Hạ giới nó có phá hoại đến thế nào đi nữa.

Trước khi bước vào Sân Ngoài, con người đã thay đổi nhiều cái sức mạnh ấy của tâm hồn. Y đã biến nó thành một tánh tốt thực sự mà y đã trau dồi từ lâu ở ngoài đời. Từ khi được biến thành tánh tốt, nó mang cái tên: “Sự phẫn nộ cao thượng”, lòng phẫn nộ đối với sự bất công, lòng thù ghét tất cả mọi điều ác, thấp hèn, ti tiện, độc hiểm. Và dưới vô số hình thức của cái sức mạnh phá hoại đó, nó đã phụng sự chủ nhân nó ở ngoài đời một cách cao thượng. Vì trước khi bước vào Sân Ngoài, y đã làm việc cho đời, y đã thực hành tánh tốt đó. Y nổi giận khi thấy người ta tàn ác với kẻ yếu, y phẫn nộ khi thấy một kẻ bạo ngược bất công. Khi thực hành đức tánh này, y đã tinh luyện cho sức mạnh đó không còn chứa chấp cái phần cặn bã ích kỷ lớn lao, vì trong những kiếp sống đầu tiên còn dã man của y, y đã tức giận cho chính bản thân y. Y nổi giận mỗi khi người ta làm cho y bị thiệt hại, y trả đũa khi người ta đánh y. Nhưng từ lâu, y đã kiềm chế, đã thắng được sự tức giận hung bạo của bản ngã thấp hèn nó đem cái sức mạnh phá hoại của nó ra mà tự bảo vệ lấy mình, nó lấy ác trả ác, lấy oán báo oán. Đã lâu lắm rồi trước khi đi vào Sân Ngoài, nó đã vượt qua cái trình độ cổ sơ ấy và đã học được cách biến hóa đến một phần nào cái sức giận dữ đó rồi. Y đã tinh luyện rất nhiều cái tính cách cá nhân của nó, y đã có thói quen tức giận khi người ta làm thiệt hại kẻ khác chớ không phải khi người ta làm cho y bị thiệt hại; y đã quen nổi xung khi thấy kẻ khác đau khổ chớ không phải khi chính y bị đau khổ. Khi y thấy một người độc ác dày xéo lên một kẻ yếu đuối bất lực, y liền chạy đến cứu giúp kẻ yếu, y đánh kẻ áp chế và xua đuổi nó đi một cách quyết liệt. Như thế y đã xử dụng sự tức giận cao thượng để chiến thắng sự tức giận thấp hèn, như thế, y đã dùng một sự bồng bột, cao thượng hơn để tiêu diệt sự bồng bột hung bạo của bản ngã thấp hèn. Trong những kiếp sống ở một dĩ vãng xa xăm, con người đã học cách tinh luyện cho sự tức giận của y không còn tính cách thô tục nữa, và đi đến cái mức không tức giận khi nghĩ đến chính mình y mà chỉ tức giận vì lo cho những người mà y muốn giúp đỡ. Xin chư huynh nhớ rằng nơi đây linh hồn đã nhìn nhận từ lâu rằng việc phụng sự là một bổn phận, và một trong những cách phụng sự của y là tiêu diệt những kẻ áp chế, xua đuổi những kẻ làm cho người khác đau khổ. Sự tức giận nồng nhiệt của y phản đối lại mọi hình thức của sự ác, y đã làm việc cho những kẻ yếu, và có lẽ đã hành động như một vị anh hùng trên thế gian.

Nhưng trong bầu không khi yên tịnh hơn của Sân Ngoài Thánh Điện, nhờ ánh sáng của lòng Từ bi vô lượng của Linh Đài soi tỏ không còn có một chỗ để chấp chứa sự tức giận được nữa dù sự tức giận đó đã được tinh luyện rồi, và không còn tính cách cá nhân. Vì bây giờ người chí nguyện phải biết rằng: những kẻ làm điều ác cũng là những huynh đệ của y, và do những việc ác của chính họ, họ sẽ phải đau khổ một cách sâu xa, thấm thía hơn là những người đã bị họ áp chế và ức hiếp. Y phải biết rằng cái sự phẫn nộ cao thượng ấy, cái sự tức giận trước sự ác, cái sự hăng hái có tính cách phá hoại như thế, chống đối với sự áp chế, không còn được là những nét đặc biệt của linh hồn cố gắng tiến lại gần Thượng Đế nữa, vì Thượng Đế yêu mến tất cả các con cái của Ngài mà Ngài đã cho đầu thai xuống trần, dù những kẻ này ở vào trình độ nào, cao hay thấp cũng vậy, dù mức tiến hóa của họ có thấp kém đến đâu đi nữa. Không một sự gì có thể thoát ra khỏi lòng từ ái của Thượng Đế. Ngài đã sanh ra vạn vật. Ngài là Trung tâm của mọi sự. Ngài ngự trong lòng của kẻ gian ác cũng như các bậc Thánh Nhân. Trong Sân Ngoài, ta phải nhìn nhận Thượng Đế, dù những đám mây che phủ Ngài còn dầy đặc đến đâu chăng nữa, vì con mắt tinh thần phải được mở rộng và không được để cho một tấm màn che nào che lấp mà không thấy được Chơn Nhơn của người khác. Vì thế cho nên sự phẫn nộ cao thượng này phải được tinh luyện cho đến mức không còn có một sự giận dũi nào nữa, nó phải biến thành một sức mạnh phù trợ, giúp đỡ mọi sinh linh, không loại trừ một ai. Cái năng lực mạnh mẽ này của linh hồn phải trở nên hoàn toàn tinh khiết, nó phải làm việc lành cho kẻ bạo chúa cũng như cho kẻ nô lệ, nó phải lấy tấm lòng từ ái mà bao trùm cả kẻ áp bức và người bị áp bức. Các Đấng Cứu Thế không hề lựa chọn những người nào mà các Ngài ưa thích để các Ngài cứu giúp. Các Ngài cứu giúp tất cả mọi người, không hề phân biệt ai là ai. Những vị phụng sự đời không bao giờ thù ghét một sinh linh nào trong vũ trụ. Do sự tinh luyện, sự tức giận xưa kia nay trở thành sự che chở cho kẻ yếu đuối, sự phản đối vô tư đối với tội lỗi trụy lạc, và sự công bằng tuyệt đối đối với tất cả mọi người.

Người ta đã tinh luyện sự tức giận như thế nào thì người ta cũng tinh luyện tình yêu như thế nấy. Lần đầu tiên, ở giai đoạn đầu của sự phát triển của con người, thì tình yêu tự biểu lộ dưới cái hình thức thấp hèn và ti tiện nhất. Nó có thể hẹp hòi và ô trược, như lòng dục mù quáng nhắm vào một người khác, và trong khi khao khát được thỏa mãn, nó không hề lo lắng chút nào những điều có thể đến cho người yêu. Theo với sự phát triển của tâm hồn, tích cách của tình yêu đã thay đổi, nó trở thành cao thượng hơn trước, ít ích kỷ hơn trước, ít có tánh cách cá nhân hơn trước, cho đến khi nó quyến luyến chỉ vì mến những nét cao thượng của người yêu, chớ không phải quyến luyến cái vỏ xác thịt bên ngoài. Tình yêu thoạt đầu chỉ là dục vọng, nay đã trở nên tinh khiết và có tính cách luân lý. Nhưng ở Sân Ngoài của Thánh Điện, nó còn phải trở nên tinh khiết hơn thế nữa. Thí sinh phải mến yêu, nhưng phải mến yêu một cách không riêng tư, độc quyền, tình yêu càng ngày càng phải lan rộng hơn, nồng nhiệt hơn, rạng rỡ hơn, đầm ấm hơn, nói tóm lại không còn chứa đựng cái gì thấp hèn thuộc về bản ngã nữa.

Một tình yêu như thế luôn luôn nhắm về phía người khác, tìm cách để phụng sự họ, chớ không phải để phụng sự chính mình. Nó tự hỏi: “Ta có thể ban phát ra bao nhiêu” và không bao giờ nghĩ rằng: “Ta thu nhận được những gì”. Một tình yêu mà được như thế thì tinh hoa của nó đang trở nên thiêng liêng, vì nó sẽ tự ban ra theo nhu cầu của kẻ khác, chớ không phải tùy theo số tiền bạc mà người ta sẽ đền bù lại cho nó.

Trong khi linh hồn cố gắng tự tinh luyện như vậy, bằng cách làm việc hết sức mình để phụng sự nhân loại, nó phải tự kiểm soát mình mỗi lúc không ngừng. Sự Vô Tư sẽ là “Thanh gươm Ithuriel” [[3]], là hòn đá thử vàng được mang ra áp dụng trong mọi hành động. Khi linh hồn giúp ai một việc gì, khi nó làm một việc mà nó cho là hữu ích đối với nhân loại, nó phải thận trọng dò xét sự hành động và lý do của sự đó, để xem coi cái chất độc tế nhị của cái “Tôi” có xen lẫn ở trong sức lực đã tốn hao không. Nếu linh hồn khám phá ra rằng nó tìm kiếm sự thành công của chính nó hơn là sự thành công của việc làm; nếu khi trông thấy kẻ khác thành công trong một việc mà nó đã thất bại không làm xong được, một nỗi đắng cay bỗng xen lẫn vào nỗi vui mừng vì thấy công việc được hoàn thành – thì lúc đó nó biết rằng bản ngã hãy còn; vì nếu nó thật trong sạch đàng hoàng thì nó chỉ lo lắng sao cho công việc phụng sự được thành tựu mà thôi, và không bận lòng đến việc mình đã được dự phần vào đấy. Và nếu nó thấy rằng một sự thất bại cá nhân làm cho nó sanh ra một mối thất vọng, nếu nó chán nản, ngã lòng khi đã phí sức mà không thành công, nếu có một sự gì gọi là “Tôi không hiểu tại sao” làm xáo trộn sự an lạc và yên tĩnh của nó trong chốc lát, thì lúc đó, nó nhận thấy ngay được rằng sự đắng cay và sự xáo trộn nầy là dấu vết của bản ngã, cần phải tiêu diệt đi, và nó phải quả quyết loại trừ nhược điểm ấy để làm tan đám mây đang che mắt đó. Ngoài ra, nếu khi phân tách, và thử thách tình yêu của nó Linh hồn thấy rằng ở đấy cũng có một cảm tình lạnh nhạt, một chút thất vọng khi người khác được nó yêu mến mà vẫn tỏ vẻ lãnh đạm, lạnh nhạt, mặc dầu nó đã phụng sự người yêu một cách cao thượng, đã trìu mến người một cách sâu xa thắm thía; nếu tình ỵêu được ban rải ra nay lại muốn quay về trở lại, muốn ngừng nghỉ vì không được người yêu yêu mình lại, thì lúc đó Linh hồn – tự nghiêm khắc với mình bao nhiêu thì lại phải từ bi đối với tất cả những kẻ khác bấy nhiêu, nó hiểu ngay được rằng đó cũng là cái mùi hương tế nhị của bản ngã hãy còn lại vậy, rằng Linh hồn cũng vẫn còn lo làm việc cho bản thân mình thay vì muốn tìm thấy sự vui cao thượng chỉ vì được cái vinh dự ban rải tình thương ra ngoài. Vậy thì Linh hồn đi qua Sân Ngoài lại phải tự tinh luyện để diệt trừ cái dấu vết của bản ngã còn lại cho đến khi tình yêu của nó chói rạng mà không bao giờ tự hỏi rằng có được người ta đền đáp lại không, mà cũng không bao giờ đợi chờ một sự trả lời. Vì thật vậy, kẻ nào không đền đáp được tấm lòng người ta yêu mến mình, thì kẻ đó chính là kẻ cần được thương yêu nhiều nhất; cá nhân nào mà không có gì đền bù lại ơn của kẻ khác đã từng giúp đỡ mình, thì chính cá nhân ấy cần thụ hưởng lòng từ bi bác ái hơn mọi người khác. Theo lối đó, Linh hồn quả quyết tự phát triển phải tự rèn luyện mình một cách nghiêm khắc, không ngớt tinh luyện cái bản ngã thấp kém của mình bằng cách tiếp tục cố gắng và triệt để khắc kỷ. Vì nó luôn luôn tự so sánh với các Đấng Cao Cả ở trên, chớ không phải với những người trẻ dại ở dưới, mắt nó phải luôn luôn hướng về phía những vị đã hoàn thành xong công việc tinh luyện bản thân, thay vì nhìn xuống đám đông đang đi lên phía Sân Ngoài. Nó không ngừng nghỉ chút nào, nó không thể hài lòng cho tới ngày nó nhìn thấy mục đích tiến lại gần một cách mau lẹ, cho tới ngày nó cảm thấy rằng nó không còn là một chướng ngại lớn lao cho Ánh sáng rực rỡ của các Đấng Cao Cả thiêng liêng.

Trong Sân Ngoài, con người bị thử thách và sa ngã vì tánh tốt chớ không phải vì tánh xấu của mình. Những sự quyến rũ tế nhị đến tấn công y và hiện ra với y như là những Thiên thần chói sáng. Những Linh hồn đang đi lên này bị thử thách bởi những điều gì cao thượng, cao cả nhất nơi họ. Kẻ thù nắm lấy những tánh tốt của họ và lợi dụng sự vô minh của họ mà biến chúng thành ra những sự quyến rũ. Vì những Linh hồn nầy đã vượt qua cái điểm mà những tánh xấu có thể làm hại họ hay lung lạc họ, và ảo tưởng chỉ có thể mang cái mặt nạ của đức hạnh thì mới có hy vọng làm cho họ sai đường lạc lối được. Vì vậy nên họ phải hết sức nghiêm khắc đối với mình, vì vậy nên họ phải khắc kỷ không ngừng. Họ dư biết rằng do những sự thất bại của chính họ và của những đạo hữu của họ, những đức tánh khó thực hiện nhất ở ngoài đời, đều trở nên dễ dàng ở Sân Ngoài, và lúc đó có thể nói rằng những đức tánh nầy bị kẻ thù trộm lấy và biến chế thành những sự cám dỗ để làm cho người tân tín đồ phải vấp té trên con đường hiểm trở. Theo cách đó, các Linh hồn biết được rằng chỉ có một cách duy nhất để thành công mà thôi, đó là luôn luôn sống theo Ánh Sáng của Chơn Ngã, vì thế cho nên các Linh hồn tin chắc chắn rằng mình không bao giờ dám đến trình diện ở cửa Thánh điện, khi mà Ánh Sáng này không chiếu rọi sáng ngời trong tim mình.

Làm sao họ dám bước vào chốn Ánh Sáng huy hoàng mà trước những tia chói rạng, tất cả những gì ở thế gian gọi là rực rỡ, quang minh chỉ là những bóng tối lờ mờ thôi, làm sao họ dám vào chốn Ánh Sáng chói lòa cho đến đỗi không có con mắt phàm tục nào nhìn ngắm nó được, và cái mà người ta gọi là đức lành, tánh tốt bị nó soi thấy để lộ ra những chỗ bất toàn, còn tất cả những gì mà ta gọi là tốt tươi, đẹp đẽ đều chẳng qua là những cái xấu xa, tầm thường, vô vị; nói tóm lại, làm sao họ dám bước vào Thánh Điện ngay dưới cái nhìn nghiêm nghị của Chơn Sư; ở nơi đây Linh hồn phải phô bày trọn vẹn Chơn Tướng của mình không còn giấu giếm che đậy cái chi được nữa, làm sao họ dám ở lại một Chỗ Thiêng Liêng như thế, nếu lòng họ còn một điểm nhỏ chưa được hoàn hảo và khi mà Chơn Sư dò xét lòng họ, Ngài còn thấy một vết nhơ làm xốn con mắt tinh anh của Ngài?

Vì vậy cho nên ở Sân Ngoài, những sự thử thách mà đời cho là khó nhọc lại biến thành ra những nỗi vui, và cái sự đau khổ nó tinh luyện ta, ta niềm nỡ đón tiếp nó như là một người bạn. Vì thế nên Thượng Đế, Vị khuôn mẫu của những nhà Tu sĩ Dô Ghi [[4]], Đấng mà người ta gọi là nhà Dô Ghi Cao Cả, Sư phụ và chủ nhân tất cả mọi người, Ngài luôn luôn đứng giữa giàn hỏa thiêu thân, xung quanh là những ngọn lửa hồng đốt tiêu mọi vật đụng tới nó. Vì trong trái tim của những ai đi qua Sân Ngoài, hãy còn có những nơi sâu kín mà Ánh sáng chưa chiếu vào được, muốn tinh luyện trọn vẹn tấm lòng, trước khi vào Thánh Điện, phải cần đến những ngọn lửa linh động của chính Đức Thượng Đế. Những ngọn lửa này đốt cháy tất cả sự tàn ác ẩn tàng, mắt không trông thấy được trong những nơi sâu kín của tấm lòng của kẻ sắp làm đệ tử, của kẻ đã hiến mình cho Sư phụ và không còn giữ lại một cái gì cho mình cả. Tự nơi giàn hỏa oai nghiêm dựng lên ngay trước cửa Thánh điện, túa ra những ngọn lửa hồng rực rỡ mà, ai ai cũng phải đi ngang qua ngọn lửa này trước khi cửa Thánh Điện được mở rộng ra đặng đón tiếp họ. Nét mặt của Thượng đế hiện ra với ta xuyên qua và ở ngay chính giữa những ngọn lửa này. Thượng Đế, nhà Dô Ghi Tối Cao, Ngài là nguồn cội của những ngọn lửa này, nhờ sự hiện diện vinh quang của Ngài trong lửa nên lửa mới có được cái tính cách tinh luyện ấy. Chính là nhờ Thượng Đế, Đức Sư Phụ tối cao mà người đệ tử được tinh luyện lần chót. Rồi Linh hồn vượt qua Thềm Thánh Điện, sau cánh cửa này Linh hồn sẽ không còn dính dấp chi với những danh lợi hồng trần nữa; trừ công việc phụng sự, nó sẽ không còn có một dục vọng phàm tục nào nữa, ngoài cái ý muốn làm việc để cứu rỗi nhân loại. Trên Địa cầu không còn một cái gì có thể quyến rũ nó được nữa, vì nó đã nhìn thấy nét mặt của Thượng Đế và trước vẻ huy hoàng Oai nghiêm của Ngài, mọi ánh sáng khác đều phải lu mờ đi vậy.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo
TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh