Các Vị Phò Trợ Vô Hình

CÁC VỊ PHÒ TRỢ VÔ HÌNH

Chúng ta thường nghe nói đến các bà Tiên Giáng phúc, các vị Thần Hộ mạng, Chư Phật, Chư Thánh độ người trong cơn nguy biến. Có người ước mong sao gặp được các vị ấy để nhờ cậy, nhưng cũng có người cho là hoang đường. Phần đông người ở nước ta tin rằng các vị ấy là kẻ khuất mặt, không có xác phàm như chúng ta mới làm được nhiều việc phi thường, nhưng ít ai ngờ một phần lớn các vị phò trợ vô hình ấy lại là các Đại Sư Huynh, các vị Đệ Tử Tiên, còn giữ xác phàm như chúng ta, nhưng biết cách xuất hồn đi cứu giúp những kẻ bị tai nàn.

Những vị PHÒ TRỢ VÔ HÌNH đi giúp đời một cách âm thầm, bình tĩnh, không khoe khoang, không cần báo đáp, cứ mãi tận tâm lo giúp người và không bao giờ nản chí. Nhóm ‘Phò Trợ’ tuy đông nhưng kết quả vẫn chưa được mỹ- mãn, chưa cứu trợ được trọn vẹn tất cả, vì phần đông nhơn loại chưa biết sửa tâm và chứa đức, chưa theo đường chơn chánh. Khi lâm nạn thì mong được Phật Trời giúp đỡ, cầu khẩn lung tung, mà khi thoát khỏi cơn nguy biến thì hoàn y tánh cũ. Người đời chưa để ý đến việc mở tâm, tìm chơn lý theo như Thánh Hiền đã dạy bảo để hành thiện. Ai cũng hiểu rằng: làm lành thì được phước, làm dữ thì mắc họa, nhưng vì tánh tham lam, ích kỷ còn mạnh mẽ, lấn áp lương tâm, nên họ chưa làm lành được, thành ra còn phải chịu nghiệp quả lâu dài.

Các vị Phò Trợ cũng như các vị Thần Minh, đều tuân theo Thiên ý là Công Bình, Bác Ái, không tư vị, không đợi người biết đền ơn, đáp nghĩa mới cứu trợ hay giáng phúc; cũng không vì người thất lễ mà để cho họ bị nạn hoặc giáng họa cho họ.

Luật Nhân quả không hề sai chạy, Trời Phật không hề thưởng phạt bất thường hay tùy thích, cho nên người nào được đặc biệt giúp đỡ, tai qua nạn khỏi là vì trước kia va đã có những hành vi xứng đáng, nên nay mới gặp được người cứu trợ kịp thời.

Ở Đông phương, hầu hết người ta đều công nhận có các vị Phò trợ vô hình, mặc dầu tên gọi khác nhau, và đặc tánh của các Ngài cũng tự nhiên thay đổi khác nhau tùy theo mỗi nước.

Ở Âu Châu cũng vậy. Những chuyện xưa của Hy Lạp luôn luôn có nói đến các vị Thần xen vào công việc của nhơn loại. Theo chuyện cổ tích La Mã thì Caster và Pollux đem các quân đoàn Cộng Hòa mới thành lập đến trận chiến ở thành Régille. Một tín ngưỡng như thế không bao giờ bị tiêu diệt theo thời đại cổ điển vì những câu chuyện nầy, qua thời Trung cổ, lại được nối tiếp bằng những sự tích các ThánhThần hiện ra trong những lúc có nguy biến và xếp đặt quân vận, vì có hảo ý với quân đội Thiên-Chúa giáo, hoặc có các vị Thần Hộ mạng xen vào cứu trợ một khách lữ hành có lòng thành kính, nếu không thì chắc chắn va phải chết.

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời...
(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras (Pitago)

Giữa cuộc quay cuồng của nền văn minh thuộc thế kỷ thứ 19, cũng như vào thời kỳ hoài nghi của chúng ta, mặc dầu tánh độc đoán theo khoa học vật chất và sự lãnh đạm ghê gớm của một số ít người, ta cũng đã nghe thấy những trường hợp cứu trợ phi thường, không thế nào giải thích theo lập trường duy-vật được.

MỘT CHIẾC TÀU NỔ

Vào lối năm 1920, tôi không nhớ chắc ngày tháng, một chiếc tàu thủy đậu tại Châu-Đốc. Trời hừng sáng, tàu sắp sửa chạy đi Nam Vang. Một người đàn ông dắt một đứa con lối bảy tuổi xuống tàu, nhưng đứa con kêu khóc, kéo cha nó trở lên bờ không chịu đi xuống và nói nó thấy có những ông gì mặt mày dữ dằn, đang bắt trói các hành khách dưới tàu. Cha nó đành trở lên. Đúng giờ, tàu chạy đi rồi, lại có một người khác bươn bả chạy tới, nhưng đã trễ tàu vì ngủ quên. Hai người phàn nàn vì phải kẹt lại Châu-đốc, ngày sau mới về được.

Nhưng đến 10 giờ thì có tin về Châu-đốc là chiếc tàu bị nổ nồi hơi nước (chaudière) tại Cù-lao Ba. Chiếc tàu nát tan ra từng mảnh vụn. Khúc sông đó hẹp nên thịt xương, tay chân, đầu mình, ruột gan của hành khách văng lên bờ rải rác, mắc trên ngọn tre, đọt cây. Cảnh tượng thật rùng rợn. Chừng đó hai hành khách trễ tàu mới biết là mình có phước. Tuy vậy trên tàu cũng còn được sống sót mấy người. Họ thuật lại chuyện lạ lùng. Một người Tài-cải đứng trước mũi tàu bị hất văng lên cao rồi rơi xuống nước nên va còn sống, chỉ bị trầy trụa sơ sài. Vài người đàn ông khác giật mình nhảy đại xuống sông lội vô bờ cũng bình an. Một người đàn ông đang ăn bún với đứa con và đứa cháu. Va hốt hoảng bồng một đứa nhỏ nhảy xuống sông lội đi. Đến khi lên bờ, nhìn lại thấy va cứu được đứa cháu, còn đứa con thì chết theo chiếc tàu.

Như thế, ta phải tin là các vị Phò Trợ Vô Hình chỉ cứu được những người hữu phước.

CỨU TRẺ KHỎI NẠN LỬA

Một trường hợp đáng chú ý đã xảy ra ở Luân Đôn. Đây là sự bảo vệ sanh mạng cho một đứa trẻ trong một cuộc hỏa hoạn kinh khủng đã xảy ra tại một khu phố không xa Holborn, thiêu hủy trọn cả hai cái nhà. Ngọn lửa đã bốc lên lẹ quá, trước khi người ta thấy, lẹ đến nỗi các lính cứu hỏa không chữa được nhà, nhưng họ cũng còn cứu được các nạn nhân, chỉ trừ hai người: một bà lão bị chết ngột vì khói, trước khi cứu ra, và một đứa trẻ vừa năm tuổi mà những người trong nhà lại quên nó, trong lúc vội vàng hoảng hốt.

Dường như mẹ nó là một người bạn hay là bà con với chủ nhà, đã gởi nó lúc ban đêm, vì bà bận việc phải đi Colchester. Khi mọi người đều được cứu đem ra, thì nhà bị bao trùm khói lửa. Lúc đó bà chủ nhà khổ não vô cùng vì nhớ lại việc bạn đã ký thác đứa con cho mình. Bây giờ cố leo lên đến gác thượng là nơi đứa nhỏ ngủ thì dường như toan làm điều vô ích, nhưng một lính cứu hỏa anh dũng lại quyết định gắng sức trong lúc vô hy vọng nầy. Sau khi nghe giải rành rẽ, tỉ mỉ vị trí đúng thật của căn phòng, va liền xông vào giữa khói và lửa.

Va gặp đứa trẻ và đem nó ra được bình an vô sự. Khi gặp các bạn đồng đội, va thuật lại một chuyện lạ thường. Va nói khi vào đến phòng, va thấy lửa đã bao quanh phòng. Phần lớn ván đã sụp đổ, nhưng có một điều lạ là ngọn lửa chỉ đi một vòng tròn theo vách tường, quanh chỗ đứa nhỏ nằm, để ra cửa sổ. Không phải như lệ thường, cũng không thể giải thích được và không bao giờ va thấy sự lạ như vậy. Nhờ đó, chỗ góc nhà mà đứa trẻ nằm không hề hấn gì cả, mặc dầu chính những cây rầm đã cháy hết phân nửa rồi. Mối kinh khủng của đứa trẻ, tự nhiên là đến cực điểm, nhưng người lính cứu hỏa giải thích rành mạch và thuật lại rằng: khi va đi ngay tới nó với sự nguy hiểm to tát thì va thấy một bóng dáng giống như là vị Thiên Thần. Đây chính là lời va nói: “Ấy là một cái gì màu rực rỡ, trắng ngần, nghiêng xuống giường và dùng bàn tay chà trên cái mền”. Va nói thêm nữa rằng: “Không thể nào lầm lẫn được, vì hiện tượng nầy còn thấy được thêm trong một lát nữa, giữa một ánh sáng chói lọi và toàn thể chỉ biến dạng ở cách tôi chừng vài bước”.

Câu chuyện nầy xảy ra một điều lạ thường đặc biệt khác. Người mẹ đứa bé đang ở Colchester, không sao ngủ được trong đêm nầy; bà cứ băn khoăn vì bị cảm giác dai dẳng và không ngăn được, bà nghi là có cái gì xảy đến cho con bà, đến nỗi bà phải ngồi dậy và cầu nguyện khá lâu. Bà hăng hái cầu xin che chở cho con bà khỏi tai nạn mà tự nhiên bà có cảm tưởng là nó đang lảng vảng nơi con bà.

Đây hẳn là một sự phò trợ mà người Thiên Chúa giáo gọi là được chuẩn nhận lời cầu xin.

Một người Thông-Thiên-Học phát biểu ý tưởng nầy một cách hạp khoa học hơn: ấy là tình mẹ yêu con, do một sự bộc lộ mạnh mẽ, đã tạo thành một mãnh lực để cho một vị Phò-trợ vô hình có thể dùng nó đặng cứu đứa trẻ thoát khỏi một cái chết khủng khiếp.

CỨU TRẺ KHỎI NẠN NƯỚC

Một trường hợp phi thường mà những trẻ được phò trợ một cách tương tợ như vậy, đã xảy ra trên bờ sông Tamise, gần Maidenhead, trước câu chuyện đã kể ở trên vài năm. Lần nầy sự nguy hiểm được ngăn ngừa không phải là do lửa mà là nước. Ba trẻ nhỏ ở tại Shottesbrood hoặc nơi kế cận, có vú già dắt đi chơi dài theo con đường để kéo ghe. Trong khi chạy quanh một góc đường, thình lình chúng nó gặp một con ngựa đang kéo một chiếc xà lan, và trong giây phút lộn xộn xảy ra, hai đứa trong đám trẻ bị kẹt dưới sợi dây và văng xuống nước.

Khi thấy tai nạn, người chủ thuyền nhào tới để cứu chúng nó. Theo lời va nói thì va thấy rõ chúng nó nổi trên mặt nước một cách lạ thường và chúng nó an ổn trôi ngay vào bờ. Người chủ thuyền và người vú già đều không thấy gì khác hơn nữa, nhưng hai đứa trẻ đều thuật lại là: “Có một bà đẹp đẽ, trắng toát và sáng ngời, ở dưới nước bên cạnh chúng nó, nâng chúng nó lên và đưa ngay vào bờ. Mà câu chuyện của chúng nó có chứng cớ vững vàng, bởi vì đứa cháu gái của người chủ thuyền, từ trong phòng chạy ra lẹ làng, khi nghe tiếng la của vú già, cũng xác nhận là chính nó thấy dưới nước một người đàn bà đẹp kéo hai đứa trẻ vào bờ.

Không còn chi tiết nào kể ra được đầy đủ hơn câu chuyện nầy, không thể nào nói một cách chắc chắn là vị thần nầy thuộc về đẳng cấp hộ trợ nào. Nhưng có lẽ đó là một người đã tấn hóa, hoạt động trong thể Vía, đúng như chúng ta sẽ thấy rõ khi nghiên cứu vấn đề nầy ở khía cạnh khác.

CỨU TRẺ ĐI LẠC

Một trường hợp xảy ra nơi lãnh địa của Bá-tước Buckingham phụ cận của Burnham Beeches, thật phi thường vì thời gian kéo dài rất lâu, trong khi đó dường như sự hiện hình của vị Phò trợ còn mãi. Người ta thấy rằng trong các câu chuyện kể trên thì sự can thiệp chỉ lâu trong giây lát. Trong trường hợp nầy thì trái lại, hiện tượng phi thường xảy ra lâu hơn nửa giờ.

Hai đứa trẻ nhỏ, con của một tiểu tá điền, rong chơi tự do trong khi cha mẹ chúng nó và mọi người đi gặt lúa. Chúng nó đi dạo trong khu rừng kế cận, đi thật xa và lạc mất đường về. Đến tối, cha mẹ chúng nó mệt nhọc trở về nhà, thấy vắng các con, bèn đi hỏi thăm mấy nhà láng diềng, nhưng cũng không gặp. Người cha cho gia nhân và các người thợ đi kiếm khắp nơi.

Nhưng các sự cố gắng của họ đều vô ích. Họ kêu gọi mà không đứa nào lên tiếng trả lời. Khi họ vừa về đến trại, khá chán nản, thì họ lại thấy một ánh sáng lạ, ở cách đó một khoảng, đi chậm chậm ngang qua những cánh đồng tiếp cận với đường lộ. Theo họ thấy thì đó là một khối hình cầu to lớn, với một ánh sáng lờ mờ, ấm áp và vàng rực rỡ không giống chút nào với ánh sáng ngọn đèn thường. Nó tiến lại gần và người ta thấy hai đứa trẻ lạc đường bước đi vững vàng ở giữa ánh sáng. Người cha và vài người khác liền chạy ngay lại. Ánh sáng đó còn chiếu mãi cho đến khi mấy người ấy tới nơi, nhưng khi họ vừa đặt tay lên mình hai đứa trẻ thì ánh sáng tiêu tan, để họ ở trong bóng tối om.

Hai trẻ thuật lại rằng: khi trời tối đen, chúng nó vừa khóc vừa đi lang thang trong rừng và cuối cùng chúng nó nằm dưới gốc cây để ngủ. Chúng nó được một người đàn bà đẹp gọi dậy, tay bà có xách một cái đèn, nắm tay chúng nó và dắt về nhà. Khi chúng nó hỏi bà thì bà mỉm cười nhưng không nói tiếng nào. Cả hai đều khăng khăng về câu chuyện kỳ dị nầy, không thể nào lay chuyển được lòng tin tưởng của chúng nó về các điều chúng nó đã thấy. Trong lúc ấy, có một điểm đáng được chú ý: Tất cả các người hiện diện đều thấy ánh sáng và nhìn nhận nó chiếu rõ các cây cối và hàng rào mà nó rọi đến, cũng giống như một ánh sáng thông thường, nhưng hình dáng người đàn bà thì chỉ có hai đứa trẻ thấy mà thôi.

VỊ PHÒ TRỢ TRẺ

Trong nhóm Phò Trợ Vô Hình của chúng ta ở Âu Châu, có hai vị, thuở xưa là anh em ruột ở Cựu Ai Cập, đến nay cũng còn liên kết với nhau một cách mật thiết. Trong kiếp hiện tại, tuổi của hai người cách biệt nhau quá nhiều. Một người đã già, người kia tên Cyril còn là một đứa trẻ tương đối về xác thịt, nhưng mà linh hồn đã tấn hóa rất cao và có nhiều hứa hẹn. Lẽ tự nhiên là người già lãnh phận sự rèn luyện và chỉ đạo người trẻ, trong công việc bí truyền mà họ rất quan tâm; và vì hai người, người nào cũng hoàn toàn giác ngộ và hoạt bát ở cõi Trung Giới nên họ dùng gần hết những giờ mà xác thịt họ ngủ, để cùng nhau làm việc dưới sự chỉ huy của một vị Sư Phụ chung, để giúp đỡ những kẻ sống và người chết, tùy theo tài sức của họ.

MỘT CÂU CHUYỆN HỎA TAI

Đây là một trong các cuộc thực nghiệm của bé Cyril, theo lời Đức Leadbeater kể lại :

Đêm nọ, Cyril và người bạn lớn tuổi, trong khi cùng đi thi hành công việc thông thường của họ (họ xuất Vía bay đi), thấy phía dưới họ có ánh sáng kinh hồn của một đám cháy vĩ đại. Hai người lật đật hạ xuống, để xem coi có thể giúp được gì chăng? Đây là một cái lữ quán bị cháy, một trú đình của dân tứ xứ (caravansérail), ở dựa mé một cái hồ rộng. Tòa dinh thự nầy gồm có nhiều tầng, nó bao quanh một cái vườn, làm thành ba cạnh của một hình chữ nhật, còn cạnh thứ tư là cái hồ. Hai dãy hai bên chạy thẳng tới bờ hồ, gần sát mé nước, cho nên mỗi phía chỉ còn lại một lối đi thật hẹp.

Dãy mặt tiền và hai dãy chái đều có những lồng bằng cây của thang máy. Từ ban đầu, lửa lan ra lẹ quá sức tưởng tượng, và trước khi các bạn chúng ta thấy được lúc xuất Vía đi ngang qua thì những tầng lầu giữa của ba dãy nhà to lớn nầy đều cháy. Ngoại trừ một em trai nhỏ, những người ở lữ quán đều may mắn thoát ra được, mặc dầu có nhiều người bị phỏng thật nặng, và bị thương tích khác.

Đứa nhỏ bị bỏ quên trong một căn phòng, ở tầng cao nhất của dãy bên trái; cha mẹ nó mắc đi dự một dạ yến, không ngờ đến cuộc hỏa hoạn và gần như là không người nào nhớ đến em nhỏ nầy trước khi đã quá trễ. Lửa đã lan khắp các tầng giữa của dãy chái nầy đến nỗi dầu có nhớ đến nó cũng không còn làm gì được nữa, vì phòng của nó hướng về khu vườn ở phía trong như tôi đã nói. Ở ngoài không còn cách nào đi vào tiếp cứu được. Vả lại, nó không ngờ đến sự nguy hiểm, bởi vì khói dày đặc và ngột hơi lần lần xâm chiếm cả căn phòng, làm cho nó càng thêm ngủ say, gần như hôn mê.

Dường như Cyril được đặc biệt thu hút bởi đám trẻ cần sự trợ giúp, hoặc bị sự nguy hiểm đe dọa, nên Cyril đến vừa đúng lúc. Ban đầu Cyril thử kêu nhắc đám dân ở lữ quán là còn sót một đứa trẻ, nhưng vô ích. Vả lại, khiến cho họ nhớ để lo cứu đứa trẻ là việc ít hy vọng và chắc chắn là mất thì giờ vô ích. Người lớn tuổi liền làm cho Cyril hiện hình lên cũng như mấy lần trước, và biểu Cyril đánh thức đứa trẻ dậy cùng làm cho nó tỉnh táo lại, vì nó đã gần mất trí. Cyril phải cực nhọc lắm mới làm cho nó hơi tỉnh, nhưng nó vẫn còn bối rối và vô ý thức, cho đến nỗi phải đẩy và kéo nó đi, phải dẫn đường và trợ lực mỗi khi đổi hướng.

Hai đứa nắm tay lôi nhau đi từ phòng ra đường hành lang chạy dài theo cả dãy nhà. Tới đó thấy khói và ngọn lửa đã bắt đầu cháy ngang ván sàn làm cho xác thịt không thể đi qua được. Cyril lại dắt nó vào một cái phòng, rồi chun ra cửa sổ và đặt nó trên một bệ cửa bằng đá, chạy suốt dãy nhà, sát phía dưới các cửa sổ. Trên bệ cửa nầy, Cyril có thể dắt bạn nó đi; chính Cyril vừa phải đi dựa vào bệ cửa, vừa đi phất phơ trên không, nhưng luôn luôn ở phía ngoài đứa nhỏ để ngừa cho bạn nó khỏi chóng mặt và sợ té.

Đến gần cuối dãy nhà, nơi cận hồ nhất, là nơi phía lửa dường như ít cháy hơn, hai trẻ mới trở vô; khi vượt qua một cửa sổ mở thì chúng nó đã lọt vào đường hành lang. Chúng nó ước ao gặp được ở cuối dãy một cái thang còn dùng được, nhưng thang đã tràn ngập lửa và khói. Thế là chúng nó trở lại, bò dọc theo hành lang. Cyril khuyên bạn nó nên để miệng gần dưới ván sàn cho đỡ ngột. Như thế chúng nó đến một cái lồng của thang máy có song thưa, choán một khoảng lớn nơi chính giữa ngôi nhà.

Dĩ nhiên là thang máy ở phía dưới, nhưng chúng nó leo xuống được tới nóc thang máy, nhờ lưới sắt phía trong của cái lồng. Ở đây chúng nó thấy bị bao hảm lại, nhưng may mắn Cyril tìm được một cái cửa đi thông từ lồng thang máy vào trong một khoảng trống của tầng lầu thứ nhứt (entresol), đúng vào phía trên của tầng nhà sát mặt đất. Nhờ lối ra nầy, chúng nó đi đến đường hành lang thì đứa nhỏ đã gần ngột hơi, kế đó chúng nó đi ngang qua một cái phòng cuối cùng ở trước mặt. Khi chun qua một cái cửa sổ, chúng nó đã ở trên mái hiên chạy dài từ đầu nầy đến đầu kia của tầng sát đất, kế bên vườn.

Nơi đó cũng dễ leo xuống. Chúng nó ôm những cây trụ, và tuột xuống tới vườn. Nhưng ở đây lửa cũng nóng lắm và nguy hiểm cực điểm khi tường đổ. Vậy Cyril phải dắt kẻ bị nạn lại nơi đầu của một dãy nhà nào đó để ra, nhưng hai đầu, ngọn lửa đã tràn ngập và những lối đi hẹp ở đây đã hoàn toàn tắt nghẽn. Rốt lại chúng nó phải ẩn vào một trong các chiếc ca-nô, đậu tại bực thang đi xuống mé nước, ở cuối vườn. Chúng nó mở dây thuyền và chèo đi khỏi bờ.

Cyril muốn chèo vòng qua phía bên kia dãy nhà cháy và đưa đứa nhỏ đã cứu được đó lên bờ, nhưng vừa chèo ra khỏi bến thì chúng nó gặp một chiếc tàu hơi chạy đến; đó là tàu đưa hành khách ở hồ nầy. Người trên tàu thấy được chúng nó vì ánh lủa cháy nhà chiếu sáng tất cả cảnh tượng ấy, và người ta thấy mọi vật như ban ngày. Chiếc tàu cặp sát chiếc ca-nô để đem hai đứa nhỏ lên, nhưng thủy thủ chỉ còn gặp có một đứa, thay vì hai đứa như người ta đã thấy. Người bạn lớn tuổi đã lật đật làm tan chất đặc mà người đã tạm thời dùng làm xác thịt cho Cyril để nó trở lại thể Vía. Vì vậy Cyril trở thành vô hình nữa.

Dĩ nhiên là người ta có kiếm mà không thấy dấu tích gì của Cyril. Người ta kết luận rằng: nó đã rơi xuống nước và chết chìm khi ca-nô cặp với tàu. Đứa nhỏ vừa được cứu lên tàu an toàn thì nó ngất lịm; khi nó tỉnh lại, nó cũng không giải thích được điều gì cho người ta hiểu; nó chỉ nói có một điều là nó còn thấy đứa trẻ ấy khi tàu cặp lại gần và nó cũng chẳng biết gì hơn nữa.

Tàu còn phải đi đến một địa điểm, cũng ở trên bờ hồ, nhưng cách xa cả hai ngày đường, vì thế gần một tuần lễ sau đứa trẻ mới được trao trả lại cho cha mẹ nó, khi mà ông bà đã tuyệt vọng tưởng là con mình đã chết thiêu trong ngọn lửa. Cyril cũng có thử đưa vào trí của họ cái tư tưởng là con họ đã được cứu, nhưng vô hiệu. Vậy bạn đọc hãy tưởng tượng coi họ vui đến bực nào khi gặp lại đứa con.

Bây giờ đứa nhỏ đã khỏe mạnh cùng sung sướng và không chán khi thuật lại chuyện tình cờ phi thường của nó. Luôn luôn nó lấy làm thương tiếc người bạn tốt của nó, vì cái chết bí mật của bạn nó xảy ra khi mà các mối nguy hiểm dường như đã qua. Nói cho đúng, nó đã cố gắng thử suy nghĩ xa gần là bạn nó không chết mất được, mà có thể đó là một vị Tiên, nhưng đương nhiên, ý tưởng nầy chỉ khiến cho những người lớn tuổi phì cười với lòng khoan dung của kẻ bề trên. Sợi dây nhân quả nối liền đứa nhỏ với kẻ cứu vớt nó chưa phát hiện, nhưng chắc chắn nó đã tạo thành rồi ở một nơi nào đó.

HAI ANH EM

Câu chuyện nầy đã được đăng trong Tạp chí The Theosophical Review, tháng 11, năm 1897.

Hai anh em, con của một nhà phong lưu ở đồng bái là: Lancelot, tuổi vừa 14, và Walter được 11 tuổi. Hai cậu trẻ thật thà, vui vẻ, thuộc hạng tầm thường khỏe mạnh và có khí phách, cũng như nhiều trẻ khác trong vương quốc đẹp đẽ nầy, và dường như chúng không biểu lộ chút nào cái khuynh hướng tâm linh, ngoại trừ chúng nó có trong huyết quản nhiều dòng máu dân Celte, (tức là nhánh dân phụ thứ tư, của giống dân chánh thứ năm, Aryen). Điều đặc biệt nhất có lẽ là tình thân ái thâm sâu liên hiệp chúng nó lại. Chúng nó không hề rời nhau; không đứa nào bằng lòng đi đâu một bước mà không có đứa kia, và đứa em yêu kính anh nó cũng như chỉ có nó mới xứng đáng là đứa em.

Than ôi! Một bữa kia, Lancelot bị té ngựa và chết trong khi nó cỡi con ngựa tơ của nó. Từ đó, đối với Walter thì thế gian dường như trống rỗng. Sự đau khổ của đứa trẻ thật đúng và thật kinh khủng đến nỗi nó không thể ăn ngủ được. Mẹ nó và bà vú chỉ còn biết chăm sóc nó mà thôi. Nó không thèm nghe lời khuyên lơn, cũng như bất cần lời khiển trách. Khi người ta nói với nó rằng: sầu não là có tội và anh nó đã ở trên Trời thì nó trả lời rằng không chắc là được như thế, và nếu đúng như thế thì nó biết là Lancelot sẽ không sung sướng ở trên Trời mà thiếu nó, cũng như nó ở dưới đất mà thiếu Lancelot. Việc nầy dường như không thể tin được, nhưng đứa trẻ khốn khổ thế nào cũng sẽ phải chết vì ưu sầu. Mà cái điều làm cho đau lòng hơn nữa là Walter không ngờ rằng anh nó luôn luôn ở kề cận bên nó, hiểu biết hoàn toàn về sự đau khổ của nó và gần hoảng hốt, vì Lancelot sờ mó mà không đụng được Walter, hoặc nói mà Walter không nghe được, mặc dầu nó gắng sức thêm mãi.

Đến ngày thứ ba, sau khi tai nạn xảy ra, tình trạng đáng thương nầy còn kéo dài nữa, khi Cyril để ý đến hai anh em nầy, mà nó cũng chẳng giải được tại sao nó biết được, nhưng chắc chắn là do ý chí của mấy vị Chơn Sư Từ bi đã hướng dẫn nó lại đó.

Bé Walter khốn khổ đã nằm liệt, suy nhược nhưng không ngủ được, nó thấy như cô đơn với mối tuyệt vọng, mặc dầu người anh thảm sầu của nó vẫn luôn luôn ở bên cạnh nó. Bé Lancelot đã thoát khỏi những chướng ngại về xác thịt, nên có thể thấy và nghe được Cyril. Vậy, dĩ nhiên là phải bắt đầu bằng cách thân mật giúp cho nó có phương tiện để giao thiệp với em nó.

Khi Cyril làm cho đứa trẻ chết tăng thêm hy vọng rồi, nó trở lại đứa trẻ còn sống và thử dùng tất cả sức mình để ghi vào óc của Walter cái ý tưởng là anh nó hiện ở đó, đã không chết mà vẫn còn như xưa, sinh khí dồi dào và đầy lòng thân ái. Tất cả cố gắng của nó đều vô ích. Sự lãnh đạm nặng nề vì sầu thảm chế ngự cả tâm trí của bé Walter khốn khổ, đến nỗi không lời khuyến dụ nào xen vào được, và Cyril cũng không biết phải làm sao nữa.

Tuy nhiên, đứng trước cảnh tượng não lòng nầy Cyril cảm thấy một mối cảm động phi thường, một tình thân ái thật nồng nhiệt, nó quyết định phải giúp ich bằng cách nầy hay cách khác, dầu phải dùng vào đó tất cả sức lực cần thiết, rồi tự nhiên nó hiện hình ra được. Nó nắm tay Walter và nói chuyện với đứa trẻ sầu khổ nầy, mà đến ngày nay, nó cũng không hiểu tại sao nó hiện hình được.

Không chú ý vào câu hỏi của Walter hỏi nó là ai và đến đây bằng cách nào, Cyril đi ngay vào vấn đề, nói cho Walter biết là anh nó hiện ở đây, kế bên nó và cố gắng làm cho Walter hiểu biết bằng cách lặp lại sự bảo đảm là Lancelot không chết, mà đang sống và tha thiết muốn có thể giúp đỡ được nó và khuyên giải nó. Walter cũng muốn tin tưởng như vậy lắm, nhưng vừa mới hơi hy vọng thôi. Rốt lại, sự nhiệt tâm và cố nài của Cyril thắng được các nghi ngờ của cậu bé.

Nó nói:”À! Tôi tin anh vì anh tử tế quá ! Nhưng nếu tôi thấy được anh tôi thì tôi mới có thể hiểu biết rõ được, tôi sẽ hoàn toàn tin chắc! Nếu tôi chỉ nghe tiếng của anh tôi nói rằng anh sung sướng, cái đó chẳng giúp ích gì cho tôi cả, nếu kế đó anh lại lìa xa tôi nữa!”

Mặc dầu kinh nghiệm còn hữu hạn, Cyril cũng đủ hiểu là một nguyện vọng như thế, (nghĩa là làm cho Lancelot hiện hình) rất ít khi được chấp thuận. Thật là miễn cưởng, khi nó phải nói cho Walter hiểu rõ điều ấy, nhưng thình lình nó cảm thấy một việc xảy đến, mà tất cả các người phò trợ đều hiểu biết, và tuy không một ai nghe tiếng nói thốt lên, nhưng trí nó nhận được mạng lịnh biểu đừng nói với Walter như nó định trả lời, mà nên hứa với nó là cái đặc ân do tâm thành của nó ước ao sẽ được chấp nhận.

Cyril bèn nói: “Hãy đợi tôi trở lại, và chừng đó em sẽ thấy” rồi nó biến mất.

Sự tiếp xúc với Chơn Sư như vầy cũng đủ chỉ cho nó biết phải làm cái gì và phương thế xử sự; Cyril vội vã ra đi để tìm người bạn lớn tuổi đã thường dự vào các cuộc trợ giúp. Vị lớn tuổi nầy chưa đi ngủ, nhưng khi nhận được sự cầu cứu gấp rút của Cyril, ông lật đật đi theo liền. Vài phút sau, họ đã ở đầu giường của Walter. Ban đầu đứa trẻ khốn khổ tưởng là nó trải qua một giấc chiêm bao đẹp đẽ mà thôi. Khi nó thấy Cyril trở lại, sự vui mừng và an ủi của nó thật cảm động, nhưng một giây sau, quang cảnh lại càng cảm động hơn nữa; khi theo mạng lịnh của Thầy vị lớn tuổi làm cho bé Lancelot đang nóng lòng, hiện hình ra được và kẻ sống, người chết được gặp nhau, cùng nắm tay nhau.

Sự đau khổ của hai anh em hoàn toàn trở thành sự vui vẻ không tả xiết. Chúng nó không ngớt tuyên bố là không khi nào buồn nữa, vì bây giờ chúng biết rằng: sự chết không thể làm chúng nó xa nhau được. Mối hân hoan của chúng nó không để chúng nó ưu sầu, mặc dầu khi Cyril giải thích kỹ lưỡng theo lời khuyên của vị bạn già là: cuộc hội ngộ hữu hình kỳ diệu nầy sẽ không tái diễn nữa, và tuy vậy, Lancelot sẽ ở kề cận bên Walter từ sáng đến chiều, mà nó không thấy được, rồi mỗi đêm Walter sẽ thoát ra khỏi xác thịt, và nó sẽ lại có đầy đủ ý thức như anh nó.

Trong khi nhận sự bảo đảm nầy, bé Walter khốn khổ đã kiệt sức nên ngủ liền, và chứng minh được ngay công việc đúng y như vậy. Mối kinh ngạc phi thường của nó là thấy nó với anh nó có thể bay mau lẹ vô cùng, mà lâu nay nó không biết, chúng nó bay từ chỗ nầy sang chỗ kia, đến những nơi mà chúng nó đã quen thuộc. Cyril đã cẩn thận cho nó biết trước là sáng hôm sau, khi thức dậy, chắc nó sẽ quên một phần lớn cuộc sống mới có thêm tự do nầy, nhưng nhờ một hạnh phúc đặc biệt nên Walter không quên như phần đông chúng ta. Có lẽ mối cảm kích của sự vui phi thường đã đánh thức các quan năng tâm linh ẩn tàng, vốn là đặc tính của giống dân Celtes chăng? Dầu sao mặc lòng, cậu bé Walter chẳng quên một chi tiết nào về các việc đã xảy ra, và sáng bữa sau, nó thuật lại việc tình cờ nó gặp một cái nhà có tang, đó là một câu chuyện huyền diệu, nhưng ít liên quan với trạng thái tâm linh.

Cha mẹ nó tưởng là sự buồn rầu làm cho nó hóa điên, và vì bây giờ nó là người thừa tự, nên họ để ý rình xem lâu ngày với sự lo âu về các triệu chứng điên cuồng khác, mà may thay, không có điều gì hiện ra. Ông bà lại còn tưởng rằng là nó bị chứng thiên chấp cuồng (monomanie), nên mới hoàn toàn công nhận là “điều mê hoặc” đã cứu chúng nó. Nhưng người vú già của nó (là người Thiên Chúa giáo), trọn tin câu chuyện của Walter và nói rằng: “Chính Chúa Jésus vốn là Nhi đồng, nên có lòng thương xót đứa trẻ kia; khi thấy nó nằm liệt như thế, và gần chết vì buồn rầu nên Ngài đã sai một vị Thần dắt anh nó từ cõi khác về đến gần nó và ban thưởng cho nó một tình yêu mạnh hơn cái chết.” Sự mê tín bình dân cũng có khi rất gần đúng với thực tại hơn là tính hoài nghi của những người được gọi là cao thượng.

Câu chuyện chưa dứt nơi đây vì công việc tốt đẹp đã thấy khởi đầu đêm nay còn tiếp diễn luôn luôn, và không ai có thể quyết định được giới hạn và kết quả của sự hành động đã nói. Ý thức của thể Vía Walter vẫn hoạt bát luôn luôn sau cuộc giác ngộ trọn vẹn nầy; mỗi sáng cậu bé nhớ lại đủ các việc của anh em nó đã xảy ra trong đêm. Đêm nào hai anh em cũng gặp lại Cyril, một người bạn tốt của chúng nó, đã dạy chúng nó học được nhiều việc tại nơi thế giới mới lạ và kỳ diệu đang khai mở trước mặt chúng nó, và ở trên các thế giới khác cao hơn nữa. Nhờ Cyril chỉ đạo nên đứa trẻ còn sống và đứa chết đều trở thành những phần tử nhiệt thành và đúng đắn của nhóm Phò Trợ, và có lẽ, trong khoảng nhiều năm nữa, khi mà cái Vía trẻ trung và mạnh mẽ của Lancelot chưa bị tan rã lần hồi đến hết, thì còn biết bao nhiêu đứa trẻ gần chết phải mang ơn bộ ba nầy đang cố gắng chia sớt cho những kẻ khác một ít phần vui vẻ mà chính chúng nó đã nhận được.

Và chẳng phải chỉ có những người chết mới được các tín đồ mới nầy giúp đỡ, họ còn đi tìm và gặp những đứa trẻ khác đang sống ở trần mà khi ngủ lại có ý thức được cõi Trung Giới. Ít ra cũng có hơn một đứa trong các trẻ được họ dắt đến Cyril đã tỏ ra là một tân tiểu-đồ-đệ quí báu cho nhóm Phò Trợ trẻ, đồng thời là một người bạn thiết trẻ xuất chúng ở cõi Trần gian.

Những người mới làm quen với cái ý tưởng nầy, có khi cần phải lắm công phu mới hiểu tại sao những trẻ nhỏ có thể giúp đỡ được ở cõi Trung Giới. Họ viện cớ là cái Vía của một đứa trẻ tất nhiên chưa được tấn hóa, và do đó Linh hồn cũng phải bị hạn chế bởi tình trạng còn ấu thơ, mà ở trên cõi Trung Giới cũng giống như tại cõi Trần, thì làm sao một Linh hồn như vậy có thể đủ sức giúp đỡ hoặc trợ lực sự tấn hóa về Tâm-Linh, Trí-não và Đạo-lý của nhơn loại được? Người ta nói đó là công việc chánh của những vị Hộ thần.

Lần thứ nhứt, một câu hỏi như vậy được nêu ra, và Cyril trả lời như sau đây: “Thật rất đúng như lời của tác giả câu hỏi, tôi chỉ là một đứa bé, tôi hiểu biết thật còn ít ỏi, và tôi sẽ giúp được nhiều việc hơn nữa khi tôi hiểu biết được nhiều thêm. Tuy nhiên, từ bây giờ, tôi đã có thể làm việc được chút đỉnh, bởi vì có rất nhiều người chưa học một chút nào về Thông-Thiên-Học, trong khi họ rất thông minh hơn tôi về các mặt khác. Huynh cũng rõ, khi Huynh muốn đến một nơi nhứt định nào đó, thì một đứa trẻ biết đường đi nơi đó sẽ ích lợi cho Huynh hơn là một trăm vị Bác học mà không biết đường đến đó.”

Thật vậy, dầu đối với một đứa trẻ, sự giác ngộ ở cõi Trung Giới cũng đem đến một sự phát triển cấp tốc cho cái Vía của nó, đến nỗi chẳng bao lâu, nó trở thành ngang hàng với những người trưởng thành, đã được giác ngộ ở cõi nầy, tự nhiên khi đó nó có thể giúp đời rất nhiều hơn người thông thái nhứt mà cái Vía chưa thức tỉnh. Nhưng nếu Linh hồn ở trong cái xác trẻ nầy không có phẩm chất của một đức tánh vừa quyết tâm, vừa thương yêu, đã biểu lộ rõ ràng trong những kiếp trước, thì không một nhà huyền-bí-học nào chịu lãnh trách nhiệm trọng đại để giác ngộ nó ở cõi Trung giới. Khi nghiệp quả của những trẻ đã đến mức đáng được giác ngộ thì thường chúng nó tỏ ra là những kẻ giúp đỡ hữu ích nhất, và chuyên tâm làm việc một cách tận tình và trung thành đáng khen.

Một câu hỏi khác cũng đáng được nêu ra: Cyril đã tự nó hiện hình ra được vì có rất nhiều tình thương, lòng trắc ẩn và ý chí, có phải là phi thường hơn Lancelot chăng, vì trẻ nầy cũng đã thử liên lạc với Walter lâu hơn, mà chẳng có kết quả gì cả?

Tất nhiên cũng dễ hiểu. Lancelot bất lực vì lúc đó nó chưa biết rằng con người có thể hiện hình ra được, và cũng chưa biết các điều kiện cần thiết như lúc sau nầy, trái lại Cyril chắc chắn đã có những tình cảm mạnh mẽ hơn Lancelot, nó lại hiểu biết đúng đắn cái gì nó muốn làm; nó biết rành là người ta có thể hiện hình được và biết gần đúng cách thế để đạt đến kết quả.

o o o

Đọc đến đây, quí vị đã thấy rõ, các vị Phò Trợ vô hình luôn luôn đi khắp nơi, tìm người bị nạn để giúp đỡ, nhưng cũng có khi gặp kẻ có quả báo đã muồi, các vị ấy phài đành để họ trả quả đúng theo Luật Trời. Trong những vụ tàu nổ, tàu chìm, xe cộ đụng, các vụ thiên tai, bão lụt, động đất, chiến tranh, bôm nguyên tử nổ ở Nhựt Bổn, người chết rất nhiều, nhưng cũng còn có những người hữu phước được bình an vô sự, hoặc chỉ kinh sợ hay bị thương tích nhẹ. Những người nầy nhờ có lòng hiền từ, ưa giúp đời hoặc kiếp trước có làm phước lớn, nên được sống sót để họ tiếp tục cứu nhơn độ thế.

Biến cố Tết Mậu Thân, 1968, tại Việt Nam, làm cho dân chúng khắp Miền Nam phải kinh khủng. Mấy trăm ngàn gia đình bị nạn trong một lúc, hơn nửa triệu người khổ sở, sản nghiệp tiêu tan, nhà cửa cháy rụi hay đổ nát, đồ đạc, quần áo ra tro, người thì chết, kẻ chịu tật nguyền, đúng là nghiệp quả đã đến nên phải đành phủi hai tay, hay sang qua thế giới khác. Tuy nhiên, trong khi đó chúng ta lại thấy nhiều người được thoát nạn một cách lạ thường. Tôi xin kể một ít chuyện đã xảy ra tại châu thành Châu Đốc, rõ ràng là có bàn tay của các vị Phò Trợ Vô Hình xen vào giúp đỡ. Chúng tôi không thể kể hết được vì có nhiều vụ lắm và ở khắp nước Việt Nam.

Tại xóm Hàng-xáo, trên mé kinh vòng, nhà cửa chen chúc cất thành nhiều lớp: nhà lá, nhà ngói, nhà lầu, lớn có, nhỏ có, đủ hạng. . . Trong khi hai bên bắn nhau, dân chúng núp dưới sàn nhà để tránh đạn, nên khi lửa cháy lớn tới nơi, không chạy kịp mới có người chết.

Lửa bắt cháy từ đầu trong lần ra mé sông cái, khi đến một ngôi nhà lá nhỏ, sát bên Miểu ông Hàn-Lâm thì lửa tắt và ngôi nhà lá nhỏ đó không bị cháy. Tại đầu trong xóm nhà cháy nầy, còn sót một ngôi nhà lầu bằng gạch, không hư hao chút nào, trong khi những nhà khác chung quanh ngôi nhà nầy, từ nhà lầu, nhà ngói, nhà lá, lợp thiếc đến nhà gạch đều cháy rụi. Không ai hiểu được nguyên do, nhờ đâu mà nhà nầy không bị cháy.

Một dãy nhà khác, thuộc về phía hậu chợ Châu Đốc, các nhà ở hai đầu đều cháy rụi mà khoảng giữa còn sót lại sáu ngôi nhà lá còn nguyên vẹn.

Nhiều người công nhận là: có các vị Phò Trợ vô hình che chở những nhà nầy, vì lúc đó dân chúng phần đông chạy trốn ra xa để tránh đạn, chớ không được tự do chữa lửa.

Về sanh mạng dân chúng cũng có nhiều sự giúp đỡ phi thường. Nhiều người thoát nạn mà không biết nhờ đâu. Một ông giáo già (T.V.H.) bền lòng tu hành trên 40 năm rồi, ở trong một ngôi nhà lá, khi hai bên hỗn chiến, đạn bay ào ào, ông vì già yếu, bệnh hoạn, nên không thể chạy nạn theo người ta được, mà lúc đó, con gái ông vì quá kinh sợ nên không còn nhớ đến cha già nữa, lo chạy đi kiếm nhà có vách dày, tường chắc để núp, nhưng cô lại bị mảnh đạn văng trúng đầu, phải nằm bệnh viện hết mấy tháng, còn ông giáo già nằm tại nhà thì được bình an vô sự.

Một thầy thơ ký hành chánh (G.T.T.), hội viên T.T.H. hiền lành, thành tâm lo tu niệm, (nhà thầy ở giữa 6 ngôi nhà lá thoát khỏi nạn lửa) chạy trốn cùng những người khác nơi một đám mả có nhiều cây cối, chẳng may, tại đó lại có người núp bắn máy bay. Trên máy bay bắn xuống ầm ầm, thêm hai loạt rốc-kết xạ ngay vào đó. Nhưng có điều lạ lùng là những viên đạn đi ngay xuống mà khi gần tới lại đổi hướng, bay tạt ra phía ngoài xa hết. Nhờ vậy, thầy và nhóm người núp ở đó được bình an.

Một hội viên T.T.H. khác, (N.K.H.) là Trưởng-Ty Trước bạ ở tại Nha Trang cho biết: đêm Tết, . . . tấn công vào thành phố Nha Trang, nhà Huynh bị cháy, đồ đạc áo quần cháy gần hết. Thân mẫu của Huynh bị tử nạn, còn vợ con của Huynh được bình an vô sự. Phần Huynh thì bị phỏng rất nặng và bị đạn ở hạ bộ, phải nằm bệnh viện 20 ngày. . . Huynh công nhận là có bàn tay Phò Trợ vô hình cứu nạn nên Huynh mới còn sống. Đây là một đoạn trong bức thơ của Huynh: “Tôi bị lửa đốt xung quanh, vì ở tầng lầu thứ nhứt, tóc da cháy, chân bị phỏng nặng, lại bị đạn và máu ra nhiều. Tôi niệm: “NAM MÔ CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH CẢM QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT và NAM MÔ THIÊN Ý A-NA THÁNH MẪU”, (vì Thánh mẫu nầy thờ ở Tháp Bà tại Nha Trang) tức thì có một lực, một luồng gió đẩy tôi nhào ra cửa sổ, rớt nhằm một cái mái và từ đó, tôi nhảy xuống đất một đợt nữa (lầu một tầng). Nhảy như vậy mà không bị gảy xương. Nếu trễ năm phút tôi sẽ bị chết cháy. . . . . . . .

Vì trang sách có hạn nên chúng tôi tạm ngưng để kết luận đoạn nầy, kỳ sau sẽ bàn tiếp.

Mỗi khi có một sự cứu trợ phi thường thì người ta thường nghĩ là do Phật, Bồ Tát, một Tiên trưởng hay các Thiên Thần đến ủng hộ, nhưng sự thật, các Ngài có phận sự quan trọng hơn ở các cõi cao. Các Ngài thường hành động ở cõi Thượng giới hơn là ở cõi Trần và Trung Giới, mà nhất là lo giúp cho con người tấn hóa ở khoảng thời gian giữa hai kiếp Luân Hồi.

Quả nhiên thuở xưa, trong khi nhơn loại còn ở thời kỳ thái-sơ, có một thời gian mà con người cần nhận lãnh các sự trợ giúp nhiều hơn bây giờ. Đó là thời đại mà tất cả chư Phật và tất cả chư vị Bàn Cổ, cũng như chư vị Thủ Lãnh và Chơn Sư rời bỏ địa vị mình, đang ở nơi một bầu hành tinh tiền tiến, đều tựu về đây, lúc đó thì các loại trợ giúp đều do các Ngài đảm nhận. Nhưng con người lần lần tiến bộ, tự mình trở nên đủ sức giúp đỡ đồng loại mình, ban đầu ở cõi thấp, rồi lần lần lên những cõi cao. Hiện nay nhơn loại chúng ta đã đến giai đoạn đào tạo được các vị Phò-Trợ vô hình. Đó là các vị Đệ Tử Tiên. Mỗi khi họ ngủ thì luôn luôn họ xuất Vía đi trợ giúp thiên hạ.

Nhưng kẻ hoài nghi lại hỏi: “Nếu chúng ta giúp người thảm sầu, kẻ bị tai nạn thì có làm nghịch với luật Nhân Quả chăng? Nếu một người kia phải ở vào hoàn cảnh khổ sở để đền tội của kiếp trước nào đó, mà mình cứu giúp, cải thiện đời sống của va, thì có phải là mình làm ngăn trở Đại Luật của Vũ trụ chăng?

-- Không phải vậy ! Chúng ta giúp người là làm bổn phận, rất hạp với Luật Trời, còn nếu số mạng của một người kia phải trả quả thì chúng ta dầu có tận tâm cứu trợ cũng không làm gì sửa đổi được định mạng, nghĩa là chúng ta không ngăn trở nổi Luật Nhân-Quả. Bổn phận chúng ta là phải giúp đỡ kẻ khác với tất cả quyền lực của ta ; chúng ta chỉ có quyền hành động hợp lý, còn kết quả thì thuộc về phận sự của các vị cao cả. Làm sao chúng ta biết được số phần của một người nào? Biết đâu va vừa mới trả xong một quả báo xấu, và bây giờ va đang ở vào tình trạng cần được bàn tay tế độ để nâng đỡ va, và giúp va thoát khỏi nỗi thống khổ hoặc ngã lòng? Tại sao ta không có mối vui thích và đặc quyền về thiện nghiệp nầy. Nếu ta không thử hành động giúp đời thì làm sao biết va có xứng đáng được hưởng đặc ân nầy chăng?

Vậy ai có lòng nhân từ thì cứ tận tâm giúp đời, còn kết quả thì đừng quá chú trọng, vì nó phải đến đúng theo Nhân quả.

Điều cốt yếu là ta phải lo dìu dắt thế nào cho nhân loại ưa thích làm việc thiện thêm lên và tránh xa điều ác, diệt trừ tánh tham lam ích kỷ.

Riêng phần chúng ta, nếu ai muốn gia nhập vào nhóm Phò-trợ vô hình nầy thì phải cố gắng làm chủ ba thể: Xác, Vía, Trí và luyện tập các đức tánh tốt như: hy sinh, can đảm, bác ái, bền chí, bình tĩnh, khoan dung, v.v. . . chắc chắn ta sẽ được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ tử để chúng ta dễ dàng PHỤNG SỰ đúng THIÊN CƠ.

Hi vọng các bạn có thể ủng hộ trong khả năng, để giúp đỡ đội ngũ biên tập và chi phí duy trì máy chủ đang ngày một tăng. Mọi đóng góp xin gửi về:
Người nhận: Hoàng Nhật Minh
Số tài khoản: 103873878411
Ngân hàng: VietinBank

momo vietinbank
Bài Trước Đó Bài Tiếp Theo

Phim Thức Tỉnh

Nhạc Chữa LànhTủ Sách Tâm Linh